Dàn ý phân tích Vội vàng
Mở bài
– Giới thiệu chung về bài thơ Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu.
Thân bài
1. 13 câu đầu
4 câu đầu
– Ý nghĩa: Tình yêu cuộc sống tha thiết, đắm say của Xuân Diệu:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
– Nghệ thuật
+ Điệp cấu trúc “tôi muốn, cho”, điệp từ “đừng”: như một lời cầu xin khẩn thiết. Tác dụng: nhấn mạnh một mong muốn, khát vọng mãnh liệt điều khiển tự nhiên của mình.
9 câu tiếp theo
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến oanh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
– Nghệ thuật: điệp cấu trúc, đảo ngữ “của này đây, này đây của”, liệt kê
– Tác dụng:
+ Nhấn mạnh sự phong phú dường như bất tận của thiên nhiên, vẻ đẹp diệu kì của nó mà trời đất đã ban cho mỗi cuộc đời, mỗi con người.
+ Quan điểm mới mẻ, tiến bộ của Xuân Diệu: Cuộc sống xung quang chúng ta đẹp vô cùng. Vẻ đẹp không ở đâu xa mà ở ngay cõi trần thế, xung quanh mình.
+ Và con người trong thơ Xuân Diệu cùng với thiên nhiên là đôi bạn tri kỷ, hiểu nhau và đem lại niềm vui cho nhau: “Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”
+ “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”: Thật là một sự so sánh vô cùng độc đáo và thú vị. Xuân Diệu không dùng thính giác hay thị giác để cảm nhận về thời gian mà lại dùng vị giác để cảm nhận thời gian – điều mà ta không thể sờ mó được.
– Có thể cảm nhận, hưởng thụ vẻ đẹp của mùa xuân rõ nét, cụ thể hơn
– Suy tư của Xuân Diệu: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nữa”.
– Một câu thơ đã trở thành hai câu do bị ngăn cách bởi dấu chấm thể hiện sự hụt hẫng của tác giả, nhấn mạnh hai tâm trạng trái ngược của con người trong một cảm xúc thống nhất: càng yêu mến, đắm say bao nhiêu, càng sợ vụt mất bấy nhiêu.
2. 16 câu tiếp
Ý nghĩa: Quan niệm mới về thời gian của Xuân Diệu
2 câu thơ đầu
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
– Thời gian tuyến tính, một đi không trở lại
– Nghệ thuật
+ Điệp cấu trúc: điệp cấu trúc kiểu câu định nghĩa.
+ Cặp từ đối lập: tới – qua, non – già.
– Tác giả trở nên hoảng hốt, lo lắng trước ý thức định lượng về thời gian – thời gian xuôi chảy một dòng, một đi không trở lại:
7 câu thơ tiếp theo
– Nghệ thuật: Dựng lên những cặp đối lập:
+ Rộng >< chật
+ Xuân tuần hoàn >< tuổi trẻ
+ Còn trời đất >< chẳng còn tôi mãi
Tác dụng: Làm nổi bật lên ý sự vô hạn, vô cùng của trời đất nhưng đời người thì hữu hạn.
7 câu thơ cuối
– Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: Những giai điệu thì thầm của cảnh vật nghe như lời than vãn khắp nơi – núi sông thì “than thầm tiễn biệt”, cơn gió xinh thì “hờn vì nỗi phải bay đi”, chim chóc cũng “đứt tiếng reo thi” vì sợ “độ tàn phai sắp sửa”.
– Dòng chảy của thời gian khiến vạn vật từng giây phút luôn có những cuộc chia li, vạn vật chia li với một phần đời đã qua của mình.
10 câu thơ cuối
– Giải pháp tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời
– Nghệ thuật:
+ Giai điệu của bài thơ ở đoạn này như những nốt cao trong một bản nhạc.
+ Dùng một loạt các động từ mạnh: ôm, riết, say, thâu.
– Nhằm nhấn mạnh khao khát sống, khao khát yêu, khao khát tận hưởng từng giây từng phút của của tác giả.
+ “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”: Là hình ảnh vô cùng mạnh mẽ, táo bạo nhằm thể hiện tình yêu cuộc sống vô cùng vô tận của tác giả.
– Quan niệm sống của tác giả: Hãy tăng tốc độ sống, tận hưởng và tận hiến
Kết bài
– Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Phân tích tác phẩm Vội Vàng – Mẫu 1
Xuân Diệu được xem là ngọn cờ đầu trong phong trào thơ mới. Phong trào thơ mới là cuộc vận động đề xướng sử dụng các thể loại thơ mới, không tuân theo lối vần luật, niêm luật của các thể loại thơ cổ. Nhưng phong trào thơ mới không chỉ nói đến vần luật trong thơ nó còn biểu hiện trong ý thơ, là thơ của cái tôi, là tiếng nói giải phóng cá nhân ra khỏi những ràng buộc của xã hội thực dân phong kiến thời bấy giờ. Bạn có biết bài thơ nào của Xuân Diệu được xem như là bản tuyên ngôn về lẽ sống của tác giả cũng như của phong trào thơ mới không? Đó chính là bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu.
Mặc dù bài thơ được viết theo dòng cảm xúc mãnh liệt, dào dạt tuôn trào nhưng vẫn có bố cục vô cùng chặt chẽ. Có thể chia bài thơ thành ba phần riêng biệt. Đoạn 1 gồm 13 câu đầu nói về tình yêu cuộc sống thiết tha và say đắm của tác giả. Đoạn 2 từ câu 14 đến câu 30 thể hiện tâm trạng băn khoăn của tác giả về tuổi trẻ của đời người trước sự qua đi nhanh chóng của thời gian. Đoạn 3 gồm 9 câu cuối nói về tâm trạng vội vàng, thái độ sống gấp gáp của tác giả, đồng thời là tuyên ngôn về lẽ sống của Xuân Diệu.
Ngay từ những vần thơ đầu tiên, với cách dùng những câu thơ năm chữ, tác giả đã thể hiện một tình yêu cuộc sống đầy táo bạo:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Với cách sử dụng điệp từ “tôi muốn” và “cho” kết hợp cùng các động từ mạnh, tác giả muốn nhấn mạnh một mong muốn, khát vọng mãnh liệt điều khiển tự nhiên của mình. Thật là táo bạo và phi thực tế phải không các bạn, làm thế nào mà con người có thể chi phối sự vận hành của thiên nhiên vạn vật, có thể níu giữ dòng chảy thời gian? Dù biết như vậy nhưng Xuân Diệu vẫn muốn nói lên khát vọng “tắt nắng”, “buộc gió”, bởi ông yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống thiết tha nên luôn muốn níu kéo thời gian ở lại. Không như những nhà thơ trung đại chỉ cảm nhận cái đẹp một cách mực thước, tác giả cảm nhận cái đẹp một cách trần tục, cái đẹp của “ong bướm trong tuần tháng mật” của “hoa đồng nội xanh rì”:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây là của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Cảnh thiên nhiên trong mắt Xuân Diệu là cảnh thần tiên nhưng cũng đầy trần tục qua những thành ngữ “tuần trăng mật của ong bướm”, “khúc tình si của yến oanh” – vạn vật quen thuộc qua cái nhìn độc đáo của nhà thơ trở nên thật mới lạ và hấp dẫn.
Điệp từ “Này đây” được nhắc đến nhiều lần nhằm nhấn mạnh sự phong phú dường như bất tận của thiên nhiên, vẻ đẹp diệu kì của nó mà trời đất đã ban cho mỗi cuộc đời, mỗi con người. Và con người trong thơ Xuân Diệu cùng với thiên nhiên là đôi bạn tri kỷ, hiểu nhau và đem lại niềm vui cho nhau:
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Thật là một sự so sánh vô cùng độc đáo và thú vị. Xuân Diệu không dùng thính giác hay thị giác để cảm nhận về thời gian mà lại dùng vị giác để cảm nhận thời gian – điều mà ta không thể sờ mó được. Đây chính là điểm độc đáo của thơ Xuân Diệu vào thời điểm đó. Tác giả đã cảm nhận được cái tươi đẹp của thiên nhiên bằng tất cả các giác quan của con người để từ đó thốt lên:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
Một câu thơ đã trở thành hai câu do bị ngăn cách bởi dấu chấm thể hiện sự hụt hẫng của tác giả, nhấn mạnh hai tâm trạng trái ngược của con người trong một cảm xúc thống nhất: càng yêu mến, đắm say bao nhiêu, càng sợ vụt mất bấy nhiêu. Thời gian quý giá nhất là mùa xuân, đời người quý giá nhất là tuổi trẻ và tình yêu. Vì thế, tác giả – một người luôn khao khát tình yêu, khao khát hạnh phúc bỗng cảm thấy lo âu, sợ hãi vì thời gian là một vị thần luôn tiêu diệt tuổi thanh xuân của con người:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nên chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Đến đây, ta thấy sự chuyển hướng cảm xúc của tác giả thông qua giọng điệu của từng khổ thơ. Từ đắm say, rạo rực của khổ thơ thứ hai chuyển sang bàng hoàng, lo lắng. của khổ thơ thứ ba. Tác giả trở nên hoảng hốt, lo lắng trước ý thức định lượng về thời gian – thời gian xuôi chảy một dòng, một đi không trở lại:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mở đầu bài thơ tác giả đã muốn điều khiển thiên nhiên nhưng tác giả đã biết đó là điều không thể được, ông nhận thấy sự trôi qua của thời gian sẽ khiến con người ta không thể níu kéo lại được. Mùa xuân rồi cũng trôi qua cũng như tuổi trẻ rồi cũng tàn phai theo năm tháng. Với cách sử dụng những cặp từ đối lập: “rộng, chật”; “xuân tuần hoàn, tuổi trẻ” và “còn trời đất, chẳng còn tôi mãi”, Xuân Diệu đã làm nổi bật lên ý sự vô hạn, vô cùng của trời đất nhưng đời người thì hữu hạn. Chính vì vậy, mỗi người nên biết trân trọng từng phút giây được sống, phải biết cách sống tận hưởng, tận hiến. Tiếp theo là cảm xúc buồn, nuối tiếc, nền tảng khơi dậy những khao khát cháy bỏng ở đoạn sau của nhà thơ. Cảnh vật trong đoạn này cũng buồn theo cảm xúc của tác giả, dường như mất đi vẻ vô tư của nó, cũng buồn, cũng sợ hãi, cũng nhuốm màu chia ly:
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Những giai điệu thì thầm của cảnh vật nghe như lời than vãn khắp nơi – núi sông thì “than thầm tiễn biệt”, cơn gió xinh thì “hờn vì nỗi phải bay đi”, chim chóc cũng “đứt tiếng reo thi” vì sợ “độ tàn phai sắp sửa”. Đó là cảnh vật, còn tâm trạng tác giả thì lại là một tiếng thở dài ngao ngán.“Chẳng bao giờ, ôi! chẳng bao giờ nữa”. Nhưng bản thân tác giả khi ấy còn trẻ tuổi, còn yêu đời nên đã không cho phép mình buông xuôi, phó mặc. Nhà thơ đưa đến kết luận cuối cùng là phải vội vàng, phải tận hưởng cuộc sống, tận hưởng những vẻ đẹp của đất trời:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Giai điệu của bài thơ ở đoạn này như những nốt cao trong một bản nhạc, không còn trầm buồn nữa nhằm thể hiện khao khát muốn sống vội vàng, muốn sống hết mình của tác giả. Những động từ mạnh, tăng tiến liên tiếp như “ôm”, “riết”, “say”, “thâu” cùng với điệp từ “ta muốn” nhằm nhấn mạnh khao khát sống, khao khát yêu, khao khát tận hưởng từng giây từng phút của của tác giả. Và câu thơ cuối cùng “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” cùng với câu thơ trước “Tháng giêng ngon như cặp môi gần” như một cặp song sinh trong bài thơ đều là những hình ảnh vô cùng mạnh mẽ, táo bạo nhằm thể hiện tình yêu cuộc sống vô cùng vô tận của tác giả.
Có thể nói, “Vội vàng” là một bản tuyên ngôn về lẽ sống của tác giả, là một thông điệp sống đầy tiến bộ vào thời điểm đó, thời điểm đầy rẫy những ràng buộc của xã hội thực dân phong kiến. Tác phẩm còn có giá trị lớn lao về mặt nghệ thuật thể hiện sự cách tân trong việc phá bỏ mọi niêm luật – trong từng câu thơ, trong từng tứ thơ đều có những hình ảnh vô cùng thi vị, độc đáo và đầy sáng tạo.
Phân tích tác phẩm Vội Vàng – Mẫu 2
Dù phong trào Thơ mới chỉ kéo dài chưa đến một thập kỷ nhưng nó lại trở thành khoảng thời gian hoàng kim, nâng đỡ hàng loạt nhà thơ trẻ tuổi, tài năng đa dạng cả về màu sắc lẫn đề tài trên con đường thơ ca của họ. Một trong số đó phải nói đến nhà thơ Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình, được nhà phê bình Hoài Thanh đặt cho cái danh xưng “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Những bài thơ của ông viết về mùa xuân, về quan niệm tình yêu và tuổi trẻ tràn đầy nhiệt huyết, nó tình cảm, nồng nàn, nghệ thuật hiện đại và có những nét cách tân mạnh mẽ, táo bạo. Thơ của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất cho ý thức cá nhân, của cái tôi mới đồng thời mang bản sắc riêng. Nó thể hiện cái tôi tích cực, mãnh liệt, hết mình vì tình yêu, khát vọng sống, khao khát được tận hưởng và cống hiến. Ông là nhà thơ đa tài, sự nghiệp sáng tác của ông phong phú nhiều thể loại, lĩnh vực khác nhau như sáng tác thơ, viết văn xuôi, viết nghiên cứu, phê bình văn học, song thơ ca chính là thứ nối kết tâm hồn thi sĩ của ông với cuộc đời, Trong sự nghiệp thơ ca của mình, tiêu biểu nhất phải kể đến tác phẩm “Vội vàng” là bài thơ hay nhất, là bài thơ đại diện cho phong cách nghệ thuật suốt cuộc đời thơ ca của ông.
“Vội vàng” được trích trong tập “Thơ thơ” in trong năm 1938, là tập thơ đầu tay của Xuân Diệu. Tác phẩm như một khu vườn rực rỡ tràn đầy màu sắc, hương hoa cỏ ngào ngạt, tràn trề sự sống thể hiện mọi cung bậc cảm xúc vui tươi, ê ấp đến đắm say, cuồng nhiệt trong tình yêu đời, yêu tuổi trẻ. Đó là tiếng thơ dạt dào của một tâm hồn trẻ tuổi lúc nào cũng thèm khát được sống với thanh xuân, say đắm cuộc đời, quyến luyến với cảnh sắc nhân gian đầy màu sắc và tươi mới. Tuổi trẻ rất đẹp, đáng được coi trọng, cả một đời người chỉ có một tuổi trẻ nên nhà thơ muốn quý trọng và sống hết mình với nó. Bài thơ với hồn thơ bồng bột, giọng thơ dạt dào, sôi nổi, thể hiện cái điệu sống vội vàng, cuốn quýt bắt nguồn từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao kì diệu, nên phải sống hết mình, sống đã đầy, chớp lấy từng khoảnh khắc và chạy đua với thời gian, ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Tâm thế được giải bày cái “tôi” thành giọng thơ, hơi thơ và thành mạch cảm xúc, hình ảnh thiên nhiên, đời sống hấp dẫn. Triết lý về cuộc sống ấy được triển khai thành mạch lý luận với một hình thức chặt chẽ, thuyết phục, minh triết.
Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu đưa người đọc vào cảm xúc vui tươi, yêu đời trước vẻ đẹp mùa xuân mơn mởn, như bức tranh thiên nhiên với nhiều màu sắc, thơ mộng. Cuộc sống đang diễn ra thật sôi động, tràn đầy nhựa sống và tác giả đã thể hiện ước muốn kì lạ, không thể thực hiện của thi sĩ. Đấy là cái ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên – quy luật trường tồn với thời gian:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Thời gian là một vòng quay vô tận “một đi không trở lại”, những nhà thơ lại thể hiện khát vọng táo bạo đến hoang đường. Có lẽ vì quá say mê trong niềm hạnh phúc, trong tâm trạng giục giã với thiên nhiên mà ông đã nảy ra trong đầu một ý nghĩ đi ngược với tự nhiên, với cái lẽ thường tình của cuộc sống. Muốn đoạt quyền tạo hóa “tắt nắng”, “buộc gió” để ngưng đọng vẻ đẹp của tự nhiên “cho màu đừng nhạt mất”, “cho hương đừng bay xa”., nhưng nắng và gió chỉ là những sự vật vô hình ta có thể cảm nhận được nhưng chẳng thể nào chạm được huống chi thay đổi chúng. Nghệ thuật điệp từ “tôi muốn” kết hợp với động từ mạnh tạo ra nhịp thở dồn dập, vội vã, người đọc thấy được niềm đam mê mãnh liệt và khát khao nắm giữ,chinh phục tạo hóa.
Qua mong muốn đầy lạ lùng ấy, ta thấy được cái “tôi” đặc biệt trữ tình của thi sĩ, nó táo bạo, ngông cuồng muốn chống lại quy luật để giữ lại vẻ đẹp mà bản thân khao khát. Nhưng cái “tôi” ấy cũng thật hồn nhiên, trong sáng và vương chút bướng bỉnh khi đứng trước những điều mà mình muốn trân trọng, yêu thương. Cho ta thấy được quan điểm mới của Xuân Diệu về cái đẹp, đối với nhà thơ cái đẹp không nằm ở chốn bồng lai tiên cảnh nào mà nó ở chính chốn nhân gian trần tục mà chúng ta đang sống, những thứ tưởng như tầm thường như ánh nắng, hương hoa, những thứ mà ngày thường chúng ta đều bỏ qua, không mấy bận tâm. Sau khi hiểu rõ quy luật ấy, ông muốn được tận hưởng vẻ đẹp giản dị ấy, không muốn bỏ lỡ bất kì phút giây nào, trước khi bước tới tận cùng của tạo hóa, đó chính là cái chết. Khổ thơ ngũ ngôn dù chỉ bồn dòng để mở đầu bài thơ cô đọng được ý chủ đạo của bài thơ nhưng cũng chẳng kém phần cảm xúc.
Sau khi nhận thức được vẻ đẹp của tạo hóa nhưng lại vượt qua khả năng con người để giữ chúng mãi mãi. Ông quyết định nhân lúc còn trẻ, nhanh chóng tận hưởng những vẻ đẹp mà thiên nhiên, tạo hóa ban tặng, sống hết mình để thưởng thức sự tươi đẹp cuộc đời, của vườn xuân không bị hối tiếc. Tình yêu cuộc sống tràn ngập trong huyết quản của nhà thơ, cảm nhận thấy cuộc sống mà mình đang sống như thiên đường. Nó được thể hiện rõ qua những vần thơ tiếp theo, vẽ lên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân nồng nàn, tươi mới, tràn đầy sức sống.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
Một bức tranh mùa xuân đầy ánh sáng, mới mẻ, tinh khôi, đầy âm thanh tình tứ. Nhà thơ nhận ra một thiên đường của cuộc sống đang tồn tại ngay bên cạnh mình, làm ông muốn ngưng đọng vẻ đẹp của tự nhiên, của vườn xuân mơn mởn, của mùa xuân rộn ràng những sắc hoa, hương thơm và mật ngọt. Khung cảnh thiên nhiên rực rỡ sắc màu được Xuân Diệu miêu tả bằng những câu thơ bay bổng, rất sinh động. Nó hiện lại như một tiên cảnh nhân gian, có sáp “ong bướm” đang thời kỳ làm mật, ngập tràn trong hạnh phúc, tựa như tình yêu đang cháy bỏng của đôi vợ chồng trẻ đang trong tuần trăng mật. Những cánh hoa sắc hương đang khoe mình rực rỡ giữa cánh đồng cỏ nội, còn có “lá của cành tơ phơ phất”, lá được hợp với cành, hạnh phúc viên mãn thành đôi, êm đềm thật lãng mạn biết bao. Của “yến anh” đang đắm chìm trong “khúc tình si” thuở mặn nồng, của ánh mặt trời như phát ra từ cặp mắt của người con gái đẹp “ánh sáng chớp hàng mi”, ánh nắng dịu dàng, ấm áp phủ lên tất thảy sự vật, soi sáng từng cảnh vật giúp chúng thêm phần lãng mạn và tràn ngập sức sống .Tất cả đó tạo nên một không khí thực rộn ràng, vui nhộn, đầy đủ sắc, hương, vị của một mùa xuân nồng nàn.
Bằng biện pháp liệt kê cùng nhiều tính từ chỉ màu sắc, tác giả đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt trần nơi trần thế. Có ong, bướm, chim muông, cùng hoa cỏ, cành lá dưới ánh mặt trời soi tỏ tạo nên một mùa xuân dồi dào sinh lực, vẻ đẹp tinh khôi, hấp dẫn, đầy xuân tình và lãng mạn. Điệp từ “Này đây” không gợi sự thừa thải mà còn tô đậm không gian và thời gian thơ, khẳng định nơi đẹp nhất không đâu xa xôi mà chính là mặt đất tràn đầy sự sống. Hình ảnh thiên nhiên và sự sống được vẽ lên gần gũi, thân thuộc mà lại quyến rũ, tình tứ, chính nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp ngay trước mắt này và thổi vào nó một tình yêu rạo rực dưới cái nhìn lãng mạn, tràn ngập tình yêu ngọt ngào và đẹp đẽ.
Đến câu thơ tiếp theo, ta bắt gặp hình ảnh “Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”, mỗi ngày được sống, được mở mắt đón nhìn ánh ban mai, đón nhận sự sống được ban tặng là một niềm vui, niềm hạnh phúc, thật biết ơn và trân trọng. Nó cũng thể hiện một quan niệm mỹ học mới đó là con người là chuẩn mực cho cái đẹp tự nhiên, thiên nhiên tuy đẹp nhưng đẹp nhất vẫn là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Kết thúc bức tranh mùa xuân đẹp không tả xiếc ấy là một câu thơ đầy ấn tượng “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, sự chuyển đổi cảm giác từ cảm nhận mùa xuân bằng thị giác, thính giác, xúc giác thành cảm nhận bằng vị giác. Tháng Giêng là tháng đầu tiên của năm, tháng bắt đầu của mùa xuân được tác giả so sánh với cặp môi gần của thiếu nữ, một sự so sánh rất mới mẻ, rất thi vị và rất Xuân Diệu. Niềm khao khát tột, muốn cảm nhận, tận hưởng mùa xuân đã thôi thúc ông đến độ muốn thưởng thức, muốn nuốt trọn mùa xuân vào lòng để thỏa thích cảm nhận cái mỹ vị của cuộc sống. Nó khiến người đọc ngỡ ngàng, bàng hoàng và ngơ ngác trước cái lãng mạn, thi vị, tình tứ của thi sĩ đang đắm chìm trong tình yêu và thưởng thức sự sống, những điều thật bình dị, gần gũi nhưng giờ mới nhận ra.
Vẻ đẹp của thiên nhiên được khai phá bằng mọi giác gian, cảm nhận mùa xuân một cách toàn diện là vậy, vui sướng là vậy nhưng nhà thơ chợt nhận ra là mình phải “vội vàng một nửa”. Dấu chấm ngách đôi câu thơ, diễn tả hai cảm xúc của Xuân Diệu, chuyển từ cảm giác sung sướng sáng hoài niệm. Bởi vì hoa nở rồi cùng tàn phai, chim ca rồi cùng ngừng tiếng hót, mùa xuân đến rồi mùa xuân lại đi, thời gian trôi đi con người cùng chẳng thể níu giữ lại được, khoảnh khắc đó dù có đẹp đến đâu rồi cũng phải qua đi. Ông không đợi “hạ nắng mới hoài xuân”, mùa hè tới rồi mới tiếc nuối mùa xuân, nỗi lo sợ dù nó chưa xảy ra, dù cho mùa xuân đang còn nồng nàn, đượm sắc nhất. Ông lo sợ dòng thời gian đang trôi không thể đón nhận hết được, muốn tận hưởng từng phút từng giây vẻ đẹp của tạo hóa ban tặng, của cuộc sống tràn đầy sức sống này. Sự lo lắng xa vời của ông thật kì lạ, nhưng phải đọc đến những câu thơ sau ta mới thấy cảm nhận được nguyên nhân của nỗi lo sợ, nuối tiếc ấy.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Thời gian tuyến tính, một đi không trở lại, một quy luật tàn nhẫn của tạo hóa, mùa xuân đến rồi mùa xuân cũng đi, như tuổi thanh xuân của con người cũng trôi qua lặng lẽ, rồi cũng phải già đi và trở về với cát bụi. Cách ngắt nhịp tuần tự trong hai câu thơ ba bốn cùng điệp cấu trúc câu khẳng định nhằm diễn tả bước đi của thời gian, cùng cặp từ đối lập với – quả và non – già làm nhấn mạnh quy luật, sự vận hành của thời gian, tuần tự, không bao giờ quay trở lại. Quy luật tàn nhẫn đến độ ông phải buông ra câu oán trách:
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Mùa xuân đi qua màng theo tuổi xuân của con người, một quy luật tàn nhẫn đầy thực tế, làm thấm đượm nỗi thất vọng trong tâm hồn nhà thơ. Trách sao đời người lại hữu hạn, không dài thêm chút nữa để ông được cái hương sắc của nhân gian, sự vui vẻ của sự sống. Dù mùa xuân tươi đẹp “vẫn tuần hoàn” những thi sĩ chỉ có một cơ hội sống trên cõi đời này, chẳng kịp nhìn mùa xuân tươi đẹp hay trời đất, vũ trụ vẫn mãi còn vẹn nguyên theo thời gian ấy. Giới hạn lớn nhất của đời người chính là thời gian, nó chẳng thể nào quay trở lại,nhà thơ đã lấy quãng thời gian ngắn nhất nhưng giàu ý nghĩa trong sinh mệnh nhất là tuổi trẻ, thanh xuân để làm thước đo cho thời gian. Mùa xuân tươi đẹp thì vẫn tuần hoàn đấy nhưng tuổi trẻ thì chẳng thể nào lại một lần nữa thắm lại, cơ hội sống chỉ có một lần trên thế gian này, chẳng kịp nhìn mùa xuân tươi đẹp lại một lần nữa. Cảnh thiên nhiên đẹp rực rỡ qua đi rồi lại quay lại, vẫn lại đẹp lung linh đến vậy nhưng con người chẳng thể nào trường tồn với thời gian như thế, chẳng thể nào quay lại thời gian, tuổi trẻ cũng sẽ qua đi chẳng thể nào có lần thứ hai, để tận hưởng sự xinh đẹp đó.
Bằng cách sử dụng những cặp từ đối lập như rộng – chật, xuân tuần hoàn – tuổi trẻ, còn trời đất – chẳng còn tôi mãi, tác giả đã khẳng định sự vô hạn, vô cùng, vô tận của trời đất nhưng đời người thì hữu hạn, chỉ sống được một đoạn thời gian, chẳng thể nào tận hưởng hết được những cái đẹp vĩnh cửu, tuần hoàn đẹp tươi mới ấy. Chính vì ý thức được sự hữu hạn, sự tàn nhẫn ấy của vòng tuần hoàn “sinh lão bệnh tử” ấy mà ông đã không tránh khỏi cảm thán “Bâng khuâng tiếc cả bầu trời”. Cảm xúc bâng khuâng, tiếc nuối thấm đẫm vào cõi lòng lãng mạn của nhà thơ, tình yêu và tuổi trẻ chính là những thứ ông hằng tâm niệm, trân trọng nhất, coi như lẽ sống của cuộc đời những nó lại không tránh khỏi quy luật tàn nhẫn đó mà qua đi. Niềm khao khát đó phải bị thực tế bắt phải từ giã, chia xa nên thi nhân cảm thấy nuối tiếc và buồn bã khôn nguôi.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa
Cảm nhận thời gian của nhà thơ đầy tính mất mát, làm sự vật cũng mang trong mình đắm mình trong nỗi buồn tiếc nuối, sống suối thì mang nỗi buồn tiễn biệt đến nỗi phải than thầm, cơn gió cũng chẳng thể sôi động, vui vẻ mà chỉ nhỏ bé “Thì thào trong lá biếc”, tiếng chim đang líu lo đã từng rộn ràng trong nắng mới cùng ngưng ca reo ca, cảnh vật thật buồn bã, héo úa, tàn phai. Dòng chảy thời gian khiến vạn vật chia ly với một phần đời đã qua của mình, thật tàn nhẫn, xót xa biết bao nhiêu. Mỗi khoảnh khắc đang rời xa hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa, mất mát, như một lời than thở của sự tàn phai của vạn vật, của không gian tiễn biệt thời gian.
Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác được sử dụng tài tình, dùng giác gian để cảm nhận thời gian, tháng năm có mùi vị, tháng năm được cảm giác bằng các giác quan như khứu giác, vị giác và cả thị giác, hữu hình cho tháng năm vốn là trừu tượng. Dùng câu cảm thán để thể hiện nuối tiếc khôn nguôi, cảm xúc thất vọng vô bờ bến về thời gian mãi mãi trôi cùng với tuổi trẻ chẳng bao giờ trở lại. Thế nhưng, Xuân Diệu nào phải là một nhà văn buông xuôi cho những nỗi buồn thương ấy, ông dùng một tâm trạng rất tích cực, người không có nhiều cái buồn đau như Huy Cận, hay tuyệt vọng như Hàn Mạc Tử, ông ý thức được sự hữu hạn của tuổi trẻ nên ông nhanh chóng tìm cho mình một giải pháp đó là buông thả bản thân, hòa mình vào thường thức và sống trọn vẹn nhiều nhất có thể. Đó chính là nền tảng để khơi dậy những khát khao cháy bỏng ở đoạn sau:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi
Để khắc phục giới hạn của thời gian, Xuân Diệu đã cho mình một phương thức sống mới, đó là sống vội vàng, sống gấp gáp để tận hưởng vẻ đẹp trong cuộc sống. Lúc này ông đã hoàn toàn ý thức được sự quý giá của tuổi trẻ nên nhà thơ với tâm thể vội vàng đã thưởng thức bữa tiệc mùa xuân đang hiện hữu trước mặt một cách vồ vập, đầy khát khao mãnh liệt, sợ chậm từng phút từng giây để đắm chìm vào nó. Thay đổi cách xưng hô từ “tôi” sang “ta” để thỏa mãn cái niềm đam mê ấy, để tận hưởng chúng trước khi biến mất. Tác giả dùng hàng loạt động từ mạnh như ôm, riết, say, thâu cùng với điệp từ “ta” muốn để nhấn mạnh cái khao khát được ôm trọn thậm chí là nuốt trọn thanh sắc của mùa xuân, cũng như muốn được điên cuồng trong tình yêu để thỏa mãn cái đôn đốc trong tâm hồn rạo rực, tràn đầy sự sống, lãng mạn. Ngôn từ được tổ chức đặc biệt thể hiện sự tinh tế, tài hoa của tác giả làm câu thơ được cộng hưởng theo chiều tiến, ôm chưa đủ còn muốn riết cho chặt, riết còn chưa thỏa đam mê nên phải say, phải thâu trong một cái hôn nhiều. Cuối cùng còn muốn cắn vào xuân hồng, cho đã cái khao khát cháy bỏng, rực rỡ ấy. Chính sự tiếc nuối ấy đã thôi thúc ông cố gắng thưởng thức thiên nhiên bằng tất cả các giác gian, không bỏ lỡ bất kì cảm nhận nào.
Cùng với việc sử dụng các tính từ như chếnh choáng, đã đầy, no nê cũng đã diễn tả được sự thỏa mãn tột cùng khi đã được tận hưởng cảnh sắc ấy một cách trọn vẹn, đủ đầy. Câu kết thơ “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người!” chính là tột đỉnh của khát vọng tuổi trẻ, yêu thiên nhiên xuân sắc, tận hưởng một cách mạnh mẽ và chân thành nhất. Giờ đây, nhà thơ không muốn trái lại với quy luật tự nhiên nữa, cùng không tiếc nuối về tuổi trẻ qua đi mà bây giờ ông đang tận hưởng như thể mình có tận hai ba cuộc đời. Một giải pháp thật thông minh và nhân văn của người thi sĩ tài hoa, mở ra cho độc giả những suy nghĩ và nhận thức mới mẻ, mang tính tích cực. Một quan niệm sống tốt và thực tế là hãy tăng tốc độ sống để cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa và cùng lúc đó hãy tận hưởng tuổi thanh xuân và cống hiến cho cuộc đời.
Với bút pháp tả cảnh đầy tài hoa cùng việc sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu hiện lên rất tươi trẻ, xinh đẹp. Với những hình ảnh được liệt kê lần lượt bằng những câu từ bay bổng, ý thơ lãng mạn đã xây dựng lên được bức tranh mùa xuân đầy tươi trẻ, rộn ràng, lại dạt dào tình cảm. Một loạt những hình ảnh nhân hóa, biện pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc đã tạo ra nhịp điệu cuống quýt, hối hả khiến cho bài thơ mang âm hưởng như một lời hiệu triệu, một sự giục giã của tác giả với những con người còn sống trong tuổi trẻ. Thủ pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để người thi sĩ nhảy cảm có thể cảm nhận được trọn vẹn mùa xuân, thiên nhiên đất trời bằng tất cả các giác quan, được tận hưởng hết mình với cuộc sống. Sự kết hợp hài hòa giữa mạch cảm xúc trên bề mặt và mạch triết luận ở bề sâu. Mỗi cảm xúc đều ào ạt, mê say, đắm đuối, cuốn người đọc theo mạch cảm xúc ấy và cũng thuyết phục được người đọc đón nhận cái thông điệp tích cực sống tận hưởng và cống hiến hết mình vì tuổi trẻ đầy hoài bão, trải nghiệm và một đi không thể nào trở lại.
“Vội vàng” là một bài thơ xuất sắc của Xuân Diệu khi đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp và cả cuộc sống và tình yêu. Cùng lúc đó nó cũng mang cho ta những cảm xúc ngông cuồng xen lẫn sự ngây ngô, khờ dại của tuổi trẻ, tuổi thanh xuân, để rồi sau đó ta lại ước muốn được tận hưởng trọn vẹn mùa xuân của thiên nhiên và cả mùa xuân của cuộc đời. Quan điểm tích cực được nhà thơ lồng ghép vào những vần thơ thật khéo kéo, tinh tế để ta cảm nhận được sâu sắc về cuộc sống, thời gian. Giọng thơ đắm say, sôi nổi là một nét rất riêng của tác giả, nó đã truyền được đủ đầy cái đắm say trong tình cảm, cái lãng mạn trong tâm hồn và chính vì vậy nó đã tìm được con đường ngắn nhất để đến với trái tim người đọc. Xuân Diệu là làn gió mới đã thổi tan cái buồn lắng đọng trong suốt mấy năm trời của giới Thơ mới, mở ra một chân trời mới, mang chút dịu dàng và lãng mạn nhưng vẫn đậm đà hương sắc đất Việt. Bài thơ xứng đáng là bài thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, nâng bước cho Xuân Diệu vững chắc trên con đường thơ ca phong phú của mình.