Bình Ngô đại cáo là bài cáo được viết bằng văn ngôn do Nguyễn Trãi soạn thảo vào mùa xuân 1428 thay lời của Bình Định Vương Lê Lợi. Mục đích của bài cáo này là để tuyên bố về chiến thắng trong cuộc chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của đất nước Đại Việt. Bài viết này, VerbaLearn sẽ giúp độc giả thuyết minh về Bình Ngô đại cáo thông qua phần dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu chọn lọc theo chương trình ngữ văn 10.
Dàn ý thuyết minh về Bình Ngô đại cáo
Mở bài
– Dẫn dắt vấn đề
– Giới thiệu Bình Ngô Đại cáo
– Gợi ý: Dựa vào một ý đặc biệt trong tác phẩm hoặc dùng câu hỏi tu từ để thu hút người đọc.
Thân bài
1. Nội dung
– Nêu tác giả của bài cáo, năm sáng tác.
– Về mặt nội dung của bài cáo: có thể chia bài cáo thành 4 đoạn.
Đoạn 1
– Nêu lên tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, khẳng định tính độc lập, chủ quyền của đất nước. Bên cạnh đó khẳng định nước ta tuy là một nước nhỏ nhưng vẫn có thể tự hào về:
– Nền văn hiến lâu đời.
– Cương vực lãnh thổ.
– Phong tục tập quán.
– Lịch sử và chế độ riêng.
Đoạn 2
– Bản cáo trạng vạch rõ tội ác kẻ thù: (dẫn chứng).
Đoạn 3
– Tổng kết lại toàn bộ quá trình khởi nghĩa với yếu tố chủ đạo là một bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Khắc họa những chiến công oanh liệt hào hùng (dẫn chứng).
Đoạn 4
– Tuyên bố hòa bình mở ra kỉ nguyên mới (Dẫn chứng)
2. Nghệ thuật
– Biện pháp đối lập, so sánh.
– Sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động
– Liệt kê, so sánh, đối lập để tạo thành bản anh hùng ca về những chiến công oanh liệt.
Kết bài
– Khái quát về giá trị của tác phẩm.
Thuyết minh về Bình Ngô đại cáo – Mẫu 1
Bạn có biết một tác phẩm văn học mà trong câu đầu tiên đã nói lên một tư tưởng mà nhờ nó dân tộc Việt Nam đã giành chiến thắng trong tất cả các cuộc chiến chống giặc ngoại xâm từ trước đến nay không? Đó là tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” – một thiên cổ hùng văn của Nguyễn Trãi với tư tưởng “lấy dân làm gốc” ngay trong câu đầu tiên: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.
“Bình ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi thừa lệnh nhà vua Lê Lợi, sáng tác năm 1428, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh kết thúc thắng lợi. Tác phẩm đã nêu lên tính chính nghĩa của cuộc chiến chống quân xâm lược, là một bản cáo trạng vạch tội ác của kẻ thù, là một bản tổng kết lại những thành tựu chống quân Minh, quá trình chiến đấu đầy gian khổ và hào hùng của dân tộc ta.
“Bình Ngô đại cáo” được viết theo thể cáo bằng chữ Hán, một thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông báo một chính sách, một sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc, công báo trước toàn dân. Nhan đề tác phẩm đã nói lên nội dung của nó là bản bố cáo trọng đại về việc dẹp yên giặc Ngô – một tên gọi khác của giặc Minh với hàm ý khinh bỉ. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống hình tượng sinh động, biện pháp tu từ đối lập, phóng đại.
Ở đoạn đầu tiên của tác phẩm, Nguyễn Trãi đã đề cao tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tính chính nghĩa đó bao gồm tư tưởng lấy dân làm gốc, phải làm cho dân được yên, được hạnh phúc:
“Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tính chính nghĩa còn thể hiện qua việc khẳng định nền độc lập, chủ quyền của nhân dân Đại Việt:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Nền độc lập, chủ quyền đó được Nguyễn Trãi thể hiện qua những cơ sở chắc chắn như một nền văn hiến đã lâu với những phong tục tập quán riêng, lãnh thổ riêng. Tác giả cũng đã thể hiện niềm tự hào dân tộc khi đặt các triều đại của Việt Nam sánh ngang với những triều đại Trung Hoa và đặc biệt nhà Trần với ba lần chiến thắng quân Nguyên:
“Tử Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có”
Không chỉ khẳng định tính chính nghĩa của quân và dân ta, ở đoạn thứ hai, Nguyễn Trãi còn nêu lên tính phi nghĩa của quân địch bằng cách vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chủ trương cai trị thâm độc, tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc Minh đối với nhân dân ta:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Tác giả với cảm hứng căm thù quân xâm lược đã liệt kê một loạt những tội ác dã man của giặc Minh, chúng không những đặt ách thống trị lên nước ta mà còn thực thi nhiều chính sách cai trị tàn nhẫn nhằm vơ vét của cải vật chất, đẩy nhân dân ta vào cảnh khốn cùng, lầm than. Tác giả đã dùng biện pháp tu từ so sánh với cái vô cùng, vô hạn để đúc kết tội ác của chúng:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Ở đoạn thứ ba, với nguồn cảm hứng của một người thắng trận, Nguyễn Trãi đã tổng kết lại toàn bộ quá trình khởi nghĩa với yếu tố chủ đạo là một bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Thuở ban đầu của cuộc kháng chiến là những gian nan, thiếu thốn, không những thiếu thốn về lương thảo mà còn về nhân lực, nhân tài:
“Tuấn kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu”
…………………………………….
“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Khi Khôi Huyện quân không một đội”,
Nhưng nghĩa quân từ người lãnh đạo cho đến quân sĩ đều một lòng bền chí, yêu nước và sáng suốt:
“Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”
Chính nhờ những điều này mà càng về sau, nghĩa quân Lam Sơn đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Những chiến công thần kỳ được miêu tả một cách dồn dập, như sóng triều dâng:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông”
Dân tộc ta vốn có truyền thống “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh kẻ chạy lại”, truyền thống nhân đạo, chuộng hòa bình. Và Nguyễn Trãi cũng nêu bật truyền thống này của dân tộc ta, tha chết cho quân giặc đã đầu hàng, lại cấp cho chúng phương tiện, lương thảo về nước.
“Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn để nhân dân nghỉ sức”
Hòa với niềm vui chung của dân tộc, tác giả đã trịnh trọng tuyên bố không những về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định nền độc lập, hòa bình vững bền của đất nước mà còn thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh”
“Bình Ngô đại cáo” không những có giá trị cao về mặt nội dung mà còn có một ý nghĩa to lớn về mặt nghệ thuật, nó là sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Giọng điệu của bài cáo thay đổi rất linh hoạt, khi triết lý sâu xa, khi thì căm phẫn sục sôi, khi thống thiết xót thương, khi hào hùng dữ dội, khi cuồn cuộn như sóng triều dâng đã làm nên một áng văn mà người đời sau mỗi khi đọc vẫn cảm thấy tự hào vì dân tộc ta đã sinh ra một nhà văn, nhà thơ lớn – Nguyễn Trãi.
Với những giá trị cao đẹp như trên, “Bình Ngô đại cáo” xứng đáng được xem là một thiên cổ hùng văn, là một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai trong lịch sử văn học nước nhà.