Dàn ý phân tích bài thơ Tràng Giang
Mở bài
– Giới thiệu tác phẩm “Tràng giang” của nhà thơ Huy Cận.
Thân bài
– Hoàn cảnh sáng tác của “Tràng giang”: Tháng 9/1938, trong một buổi chiều khi tác giả đạp xe ra bến Chèm nhìn dòng sông Hồng đang cuộn chảy.
– Bố cục của bài thơ: Gồm 4 khổ
- Khổ 1: khung cảnh sông nước mênh mông, bất tận.
- Khổ 2: cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều.
- Khổ 3: cảnh bèo trôi, bờ xanh hoang vắng.
- Khổ 4: tâm sự nhớ quê và nỗi niềm của nhà thơ
Phân tích khổ 1
– Từ láy “điệp điệp” kết hợp cùng trạng thái buồn: Nỗi buồn mênh mang lan tỏa như những đợt sóng trên sông nước.
– Hình ảnh thuyền và nước luôn gắn bó nhưng được tác giả đặt trong cảnh đối lập “thuyền về, nước lại” tạo ra cảnh chia ly đầy sầu bi, sầu vì không biết chọn hướng nào.
– Với phép đảo ngữ “củi một cành khô” và phép đối lập “một – mấy” làm tăng lên nỗi buồn lênh đênh vô định của nhà thơ.
Phân tích khổ 2
– Nhà thơ không chỉ cảm nhận thân phận bé nhỏ của mình trước cái mênh mông của sông nước mà còn cảm nhận được nỗi buồn hiu quạnh khi nhìn ra xung quanh.
– Hai câu thơ đầu thể hiện một làng quê buồn thiu, đìu hiu, vắng lặng và thiếu sức sống.
– Nỗi buồn cô đơn ấy còn được tác giả tăng thêm sức bật bằng câu hỏi tư từ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” Chợ là nơi ồn ào nhất mà cũng không thể nghe thấy, hay chăng phiên chợ ấy cũng bị cảnh buồn hiu quạnh làm cho yên tĩnh đến lặng người như thế.
– Miêu tả “trời lên sâu chót vót” thay vì “trời lên cao chót vót”: “Sâu” ở đây gợi lên một nỗi buồn không đáy, nỗi buồn trải dài đến vô cùng tận của lòng người.
Phân tích khổ 3
– Ta thấy ở đây có sự chuyển động không yên tĩnh như ở khổ thơ thứ hai, nhưng sự chuyển động này là sự chuyển động của những cánh “bèo” – ám chỉ những kiếp người lang thang không biết đâu là bờ.
– Điệp từ “không” nhằm nhấn mạnh sự trống trải đến vô cùng của những vật vô tri vô giác “bờ lau tiếp bãi vàng”.
Phân tích khổ 4
– Với bút pháp cách điệu như thơ cổ điển, tác giả đã vẽ nên một bức tranh thủy mặc hùng vĩ của thiên nhiên..
– Qua việc dùng từ láy “dợn dợn và hình ảnh “vời con nước” tác giả làm bật lên lại nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà một cách da diết.
Kết bài
– Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của các phẩm.
Phân tích tác phẩm Tràng Giang – Mẫu 1
Mỗi nhà thơ trong phong trào thơ mới đều có những đặc sắc riêng nếu Xuân Diệu đặc sắc với thơ tình cháy bỏng, Chế Lan Viên với những suy tưởng mang màu sắc triết lý, Hàn Mặc Tử với tâm hồn lẫn lộn giữa cõi mộng và thực, Nguyễn Bính với hồn quê chân chất thì Huy Cận lại là hồn thơ mang đậm nỗi buồn nhân thế. Và bài thơ đặc sắc nhất thể hiện rõ nhất chất thơ của Huy Cận vào thời đó là bài thơ Tràng Giang.
Bài thơ Tràng Giang được nhà thơ viết vào tháng 9 năm 1938, trong một buổi chiều khi tác giả đạp xe ra bến Chèm nhìn dòng sông Hồng đang cuộn chảy – Đó không chỉ là nhìn cái mênh mông của dòng sông mà buồn cho một kiếp người nhỏ bé mà còn là nỗi buồn của người thanh niên vẫn chưa tìm thấy ánh sáng của cuộc đời, vẫn còn sống trong một kiếp nô lệ. Toàn bộ bài thơ đều bao phủ một nỗi buồn man mác, nhưng mỗi khổ thơ đều có một ý riêng. Nếu khổ một là khung cảnh sông nước mênh mông, bất tận, khổ hai là cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều, khổ ba là cảnh bèo trôi, bờ xanh hoang vắng thì khổ bốn là tâm sự nhớ quê và nỗi niềm của nhà thơ. Khi nhìn dòng sông đang cuồn cuộn chảy, tác giả thấy đời người mênh mông quá, vũ trụ bao la quá, ngẫm lại phận mình vẫn đang sống trong kiếp lầm than, tác giả thốt lên:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Câu thơ đầu tiên đã gợi lên cái buồn mênh mang của nhân thế bằng cách dùng từ láy “điệp điệp”, rồi vầng ang của “tràng giang” và không những thế tác giả còn cho cái buồn đó vỗ sóng nhẹ vào nhau để tăng thêm sự lan tỏa của cảm xúc buồn. Giữa bầu trời buồn mênh mang đó có một con thuyền vô định trôi, trôi mãi, phải chăng đó là nỗi buồn cho thân phận nổi trôi của những kiếp người mất phương hướng. Hình ảnh thuyền và nước luôn gắn bó nhưng được tác giả đặt trong cảnh đối lập “thuyền về, nước lại” tạo ra cảnh chia ly đầy sầu bi, sầu vì không biết chọn hướng nào:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Tâm trạng của các nhà thơ thời kỳ đó như một kiếp người trôi nỗi long đong vô định vì nước mất, nhà tan như cành củi khô – chỉ một cành củi khô nhưng lại “lạc mấy dòng”. Với phép đảo ngữ “củi một cành khô” và phép đối lập “một – mấy” làm tăng lên nỗi buồn lênh đênh vô định của nhà thơ. Nhà thơ không chỉ cảm nhận thân phận bé nhỏ của mình trước cái mênh mông của sông nước mà còn cảm nhận được nỗi buồn hiu quạnh khi nhìn ra xung quanh:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Huy Cận đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên ảm đạm, thê lương với những thành ngữ đầy cô đơn, khắc khoải như “cồn nhỏ”, “gió đìu hiu”, chợ chiều”, “bến cô liêu”. Từ bức tranh thiên nhiên ấy, ta nhận ra sự ám ảnh về cái vô biên và sự trống trải tuyệt đối của cảnh vật và lòng người.
Hai câu thơ đầu thể hiện một làng quê buồn thiu, đìu hiu, vắng lặng và thiếu sức sống. Âm thanh tiếng “gió đìu hiu” mà tác giả nghe rất rõ của một cồn nhỏ tạo ra một cảm giác yên tĩnh đến rợn người tạo ra sức nhấn cho một nỗi buồn cô đơn, trống trãi. Nỗi buồn cô đơn ấy còn được tác giả tăng thêm sức bật bằng câu hỏi tư từ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” Chợ là nơi ồn ào nhất mà cũng không thể nghe thấy, hay chăng phiên chợ ấy cũng bị cảnh buồn hiu quạnh làm cho yên tĩnh đến lặng người như thế. Thật chua xót thay cho một làng quê nơi bến nước hoang sơ, tiêu điều không có một bóng người, không có một tiếng động. Hai câu thơ tiếp theo được tác giả dùng phép đối lập, nắng xuống đối với trời lên và sông dài đối với trời rộng cùng với hình ảnh “trời sâu chót vót” – chứ không phải “trời cao chót vót” gợi lên một nỗi buồn không đáy, nỗi buồn trải dài đến vô cùng tận của lòng người.
Nhìn xung quanh là một nỗi trống vắng, đìu hiu đến lạnh lùng, tác giả nhìn lại dòng sông hầu mong tìm thấy sự ấm áp, quen thuộc của chiếc đò ngang từng đi qua dòng sông này nhưng hỡi ôi, thiên nhiên hiu quạnh vẫn chỉ là hiu quạnh:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thương nhớ
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Ta thấy ở đây có sự chuyển động không yên tĩnh như ở khổ thơ thứ hai, nhưng sự chuyển động này là sự chuyển động của những cánh “bèo” – ám chỉ những kiếp người lang thang không biết đâu là bờ. Điệp từ “không” nhằm nhấn mạnh sự trống trải đến vô cùng của những vật vô tri vô giác “bờ lau tiếp bãi vàng”. Mong ngóng tìm ra một sự ấm cúng của cảnh vật nơi đây đã bị nhấn chìm bởi sự im lặng của vạn vật quanh đây qua từ láy “lặng lẽ” đến thê lương và đìu hiu.
Nhưng dù có buồn đến thắt lòng đi nữa, cảnh vật bên bến sông trong một buổi chiều hoàng hôn vẫn đẹp đến nao lòng. Với bút pháp cách điệu như thơ cổ điển, tác giả đã vẽ nên một bức tranh thủy mặc để cuối cùng thể hiện một cảm xúc yêu quê hương đất nước một cách kín đáo:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Với việc sử dụng từ láy “lớp lớp” và các hinh ảnh “mây cao” và “núi bạc” tạo nên một khung cảnh hùng vĩ của không gian, nhưng trong khung cảnh đó có một “chim nghiêng cánh” và một “bóng chiều sa” lại tạo ra một sự đối lập sâu sắc giữa một bên là sự bao la, mênh mông của vũ trụ và một bên là phận người nhỏ bé và không vững vàng. Qua việc dùng từ láy “dợn dợn và hình ảnh “vời con nước” tác giả làm bật lên lại nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà một cách da diết mặc dù tác giả đang đứng trên mảnh đất quê hương đó. Phải chăng đó là một ẩn ý kín đáo về lòng yêu quê hương, đất nước của tác giả?
Đặt bài thơ “Tràng giang” vào bối cảnh thời phong kiến thực dân của những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi, ta mới thấy hết giá trị độc đáo của nó. Với sự kết hợp hài hòa của bút pháp hiện đại và cổ điển – cổ điển là cách dùng những ước lệ, phép đối lập, hiện đại là cách dùng các hình ảnh tươi mới, từ láy đã tạo cho bài thơ mang một cái hồn riêng, có một sức sống riêng góp phần nâng cao sự trong sáng và giàu có của tiếng Việt cũng như khẳng định sức sống mãnh liệt của phong trào thơ mới thời bấy giờ.
Phân tích tác phẩm Tràng Giang – Mẫu 2
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Thơ của ông hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí và có âm điệu riêng. Trong suốt cuộc đời ông đã sáng tác rất nhiều tập thơ hay tiêu biểu như: Lửa thiêng (1937-1940), Vũ trụ ca (1940-1942), Trời mỗi ngày lại sáng (1958),… “Tràng giang” là một trong những bài thơ hay nhất và tiêu biểu nhất của ông in trong tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ có âm điệu miên man, sâu lắng nói lên nỗi buồn của Huy Cận khi đứng trước con sông Hồng bao la, hùng vĩ, mênh mông sông nước.
Theo Huy Cận cho biết, khi còn là sinh viên Đại học Canh nông, vào một buổi chiều thu năm 1939, ông đứng ở bờ Nam bến Chèm ngắm dòng sông Hồng mênh mang, lòng dạt dào xúc động viết bài thơ này. Đó là cảm nhận về tràng giang và suy nghĩ về kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, vô định. Ngay từ nhan đề của bài thơ, tác giả đã khéo léo sử dụng một từ Hán Việt mang sắc thái cổ điển pha lẫn hiện đại. “Tràng giang” nghĩa là con sông dài, tác giả đã sáng tạo nói chệch đi, dùng hai vần “ang” là âm mở để tạo độ vang độ ngân xà liên tiếp. Làm người đọc cảm nhận về con sông “Tràng Giang” dài vô tận, rộng mênh mông,bát ngát. Gợi cho ta liên tưởng tới dòng sông Trường Giang trong thơ Đường, đó là dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, của tâm tưởng, huyền ảo và rộng lớn. Cùng với đó, tác giả con sử dụng lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” càng làm rõ thêm không gian rộng lớn và nỗi nhớ sâu thẳm trong con người. Lời đề từ như báo trước cảm xúc nổi trội của thi nhân xuyên suốt bài thơ, để khi đọc bài thơ càng làm rõ minh chứng cho đề từ, khiến ta hiểu sâu, thấm thía hơn.
Ở khổ thơ đầu, khung cảnh trên sông nước đã được Huy Cận khắc họa rõ nét:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ đầu tiên tác giả đã nhắc lại nhan đề “tràng giang” với điệp vần “ang” tạo nên sự ngân xa, vang vọng lại cổ kính. Tràng giang – con sống dài và rộng lớn, dòng sông “đỏ nặng phù sa”. Sóng gợn lăn tăn, lớp lớp lại buồn “điệp điệp” gợi lên hình ảnh những con sóng nối tiếp, nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, làm đậm thêm không gian rộng lớn bao la.
Câu thơ thứ hai ta lại thấy được trong không gian mênh mông toàn là nước đó lại hiện lên một “con thuyền xuôi mái nước song song”, con thuyền nhỏ bé, trôi xuôi dòng, buông mái chèo mặc cho dòng nước đẩy. Tạo nên một hình ảnh nhỏ bé, trôi nổi đối lập với không gian nước bao la, không có điểm cuối, nhấn mạnh sự cô đơn, lẻ loi, mong manh. Cặp từ láy “điệp điệp” và “song song” gợi tả một nỗi buồn thấm thía, xa vắng và mơ hồ. Dòng sông bát ngát vô tận mà nỗi buồn của con người cũng đầy ắp trong đó.
Đến câu thơ thứ ba, ta lại gặp lại hình ảnh thuyền và nước nhưng ở đây chẳng hề có sự đồng điệu mà còn xa cách hơn. Thuyền và nước vốn liền nhau, thuyền trôi nhờ dòng nước vỗ vào thuyền, thế nhưng Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa. Nó khiến cho con người cảm thấy lòng “sầu trăm ngả”, nỗi buồn từ trong lòng người lan rộng ra khắp cảnh vật, đất trời. Từ chỉ số nhiều “trăm” hô ứng cùng từ chỉ số ít “mấy” đã thổi vào hồn thơ một nỗi buồn vô hạn, làm thấu rõ cái ám ảnh về kiếp người nhỏ bé, hữu hạn những sự đau khổ, sầu thương thì to lớn, vô hạn.
Câu thơ còn lại ta thấy được một tâm hồn trữ tình của tác giả được bộc lộ nhiều nhất qua câu thơ độc đáo “ Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Hình ảnh cành củi khô vừa hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Nó nhỏ bé, tầm thường trôi nổi, bấp bênh cũng như số kiếp con người giữa cuộc đời đầy sóng gió. Tác giả đã khéo léo dùng phép đảo ngữ thể hiện lên nỗi cô đơn, lạc lõng giữa vũ trụ bao la, không biết trôi dạt và đâu. Ở đây, cành củi khô cũng đang ẩn dụ cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ, nhỏ bé, không có tiếng nói, mặc cho dòng đời xô đẩy, trôi dạt phương trời, kiếp người nhỏ bé, chơi vơi giữa cuộc đời dài dằng dặc. Mang cho ta nỗi sầu vô định, cảm thấy trống vắng, cô đơn giữa không gian rộng lớn không có điểm kết thúc.
Nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” thật tài hoa, khéo léo, nỗi buồn vô hạn được ví von qua những sự vật nhỏ bé tương phản với cái mênh mông, vô tận. Hình ảnh “ củi một cành khô” thâu tóm cảm xúc toàn khổ thơ, hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, nỗi niềm cô đơn, lạc lõng. Mở ra một nỗi u sầu man mác, khôn nguôi như con sóng vỗ liên tiếp, mãi ở cả những khổ thơ còn lại.
Nỗi buồn ấy càng được gợi mở hơn qua cảnh hoang vắng, không gian hiu quạnh:
Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng , bến cô liêu.
Bắt đầu thơ với hai từ láy tượng hình “lơ thơ” và “đìu hiu” cùng với nghệ thuật đảo ngữ được tác giả khéo léo sắp xếp tạo nên một quang cảnh vắng lặng. Gợi lên sự lạnh lẽo, thưa thớt, hoang vắng tột cùng của không gian. Âm hưởng của câu thơ như trĩu lòng người về một nỗi buồn hiu hắt, cô quạnh. “Lơ thơ” thể hiện sự ít ỏi, thưa thớt, nhỏ bé, “đìu hiu” lại là sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh lạnh lẽo, lưa thưa vài “cồn nhỏ” làm con người trở nên đơn côi, ngộp ngạt đến nỗi phải thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chợ chiều vốn đã xao xác vắng bóng người, vãn chờ chiều thì càng chẳng còn bóng người nào cả, cái cảnh buồn xao xác, vắng lạnh đó càng được nâng lên gấp bội. Vậy mà giờ đây cái âm thanh xơ xác “vãn chợ chiều” ấy cũng không còn nữa. Một chút dấu hiệu của sự sống mà tác giả mong mỏi cũng chẳng còn. Từ “đâu” biểu lộ sự ngơ ngác cũng vương chút tiếc nuối của thi nhân với nỗi buồn cũng thấm đượm vào lòng người. Chỉ một câu thơ mà lại mang nhiều sắc thái, vừa như cảm thán về cảnh vật, vừa như một câu hỏi. Nó như một nỗi niềm mong mỏi của nhà thơ về một chút hoạt động, âm thanh sự sống của con người.Cũng là khẳng định xung quanh “đâu có” chút gì sống động để vơi bớt đi cái cô tịch của thiên nhiên.
Đến hai câu thơ sau, không gian như được mở rộng về cả bốn phía làm cảnh vốn đã vắng vẻ lại càng tĩnh mịch, cô liêu. Ở đây tác giả đã sử dụng hình ảnh “nắng xuống” và “trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian lại gợi tả sự chia lìa, nắng và trời vốn gắn liền nhau lại phải tách nhau ra. Cùng với nắng và trời, còn có “sông dài”, “trời rộng”, đã vẽ lên một không gian rộng mênh mông, bát ngát, vô cùng, vô tận nhưng cảnh vật lại mang một nỗi cô đơn không diễn tả bằng lời. Bầu trời và lòng sông là không gian hai chiều, trời cao thăm thẳm in xuống lòng sông. Sự sáng tạo của Huy Cận trong tính tự gợi cảm xúc, bình thường ta sẽ nói “sâu thăm thẳm” và “cao chót vót” nhưng ở đây tác giả dùng “sâu chót vót” , “bến cô liêu” làm bài thơ mang một vẻ đẹp hiện đại. Làm nổi bật lên hai tiểu đối: “nắng xuống” và “trời lên”, cái thiên nhiên bao la, mênh mông còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao. Cái nhìn của nhà thơ đã không còn dừng lại ở bên ngoài của trời, của nắng mà như xuyên thấu vào vũ trụ, không gian vô cùng tận. Chính cái không gian mở rộng ra đó càng làm con người thêm nhỏ bé, hiếm hoi, nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của tâm hồn con người được thể hiện rõ nét, mọi thứ đều tan rã, chia lìa.
Nhà thơ càng mở rộng phạm vi quan sát, càng mong mỏi tìm một chút gì đó quen thuộc để sưởi ấm tâm hồn trơ trọi. Thì thiên nhiên càng đáp lại ông bằng những hình ảnh quạnh quẽ, đìu hiu, cô tịch đến não lòng.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Câu hát “bèo dạt mây trôi” trong dân ca Quan họ gợi lên trong hồn ta một cảm xúc mơ hồ. Ở đây, Huy Cận lấy hình ảnh cánh bèo trôi dạt trên tràng giang biểu tượng cho sự hợp tan, bập bênh của kiếp người vô định giữa dòng đời không biết rồi sẽ đi đâu về đâu. Nhưng ở đây không chỉ có một cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”, nối tiếp nhau miên man càng khiến lòng người thêm cô đơn. Giữa cái bao la đất trời, sông nước hầu như chẳng còn bóng dáng con người nào cả, nỗi cô đơn rợn ngợp khắp bốn bề.
Tác giả đã sử dụng lặp lại nghệ thuật phủ định “không một chuyến đò ngang” – “không cầu” giúp thể hiện ý tứ của tác giả một cách rõ ràng. Thiên nhiên nơi đây không có bất cứ thứ gì có thể gắn kết đôi bờ với nhau. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người như bị thiên nhiên nhấn chìm, không biết trôi về nơi nào. Phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Ông muốn tìm đến những hình ảnh gần gũi, thân quen trước cái không gian vô tận này nhưng lại chẳng còn dấu vết nào cả. Mong ước có phần nhỏ bé, bình dị,mong muốn được nhìn thấy những thứ thân thuộc nhưng đáp lại ông chỉ là nỗi thất vọng, cô đơn trong tâm hồn. Cảnh vật lại rơi vào khoảng không hoang vắng, lạnh lẽo. Tiếp theo cánh bèo “hàng nối hàng” thì lại là “bờ xanh tiếp bãi vàng” lại mở ra không gian hoang vu, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, không có hình bóng của con người, không còn sự sống, sự giao hòa, nối kết. Chỉ một màu vàng của bãi tiếp nối với màu xanh của bờ vô tận. Cái buồn cái cô đơn của nhân vật trữ tình được diễn tả “mênh mông” và “lặng lẽ”, thiếu vắng tình người, cô đơn, lạc lõng giữa thiên nhiên vô cùng tận, thèm khát được nhìn thấy sự giao hòa của cuộc sống.
Càng về cuối, tâm trạng của Huy Cận càng được khắc họa rõ nét hơn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chim nghiêng cánh nhỏ: Bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà hiện lên với sự hùng vĩ, nên thơ. Hình ảnh những đám mây trắng nối tiếp nhau, “đùn” lên dưới ánh nắng chiều tà tạo nên dãy núi dát bạc, nổi bật giữa trời chiều. Tác giả đã khéo vẽ nét đẹp cổ điển xen lẫn hiện đại cho bầu trời trên cao. Bút pháp chấm phá với “mây cao đùn núi bạc” thành “lớp lớp” làm hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và càng thi vị. Sử dụng tài tình động từ “đùn” khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp cứ đùn nhau. Bên cạnh đó, hình ảnh cảnh chim xuất hiện dường như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật. Động từ “nghiêng” làm bóng hoàng hôn dường như xuống quá nhanh khiến cánh chim nghiêng lệch để bay về phía chân trời xa xăm. Trong câu “chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” , nét hiện đại được bộc lộ rõ qua dấu hai chấm thần tình. Nó gợi lên mối quan hệ giữa chim và bóng chiều. Câu thơ tả không gian nhưng lại gợi được thời gian do sử dụng hai hình ảnh đó, vì nó thường được sử dụng để tả cảnh hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.Bức tranh buổi chiều tà dù đã xuất hiện cánh chim nhưng cũng chẳng thể làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm trái tim và tâm hồn thi sĩ của Huy Cận.
Giữa khung cảnh cổ điển ấy mà người đọc lại bắt gặp được nét tâm trạng hiện đại. Nỗi cô đơn đã hóa thành nỗi nhớ nhà. Ở đây, Huy Cận đã sáng tạo khi sử dụng từ “dợn dợn” đã khắc họa chân thực một nỗi niềm bâng khuâng, da diết với quê hương, hô ứng với cụm từ “vờn” con nước làm bao nhiêu nỗi buồn trào dâng thành nỗi nhớ quê hương. Nhưng lạ thay, tác giả đang đứng trên mảnh đất quê hương mà lại nhớ quê hương đến như vậy. Đó chính là tâm trạng chung của hầu hết các nhà thơ mới, là nỗi niềm đứng trên mảnh đất thân thuộc nhưng lại cô đơn lạc lõng, nhớ quê hương da diết trước tình cảnh đất nước ta thời bấy giờ, nỗi đau xót trước cảnh mất nước. Cảm giác xa quê hương, nhớ nhung da diết chẳng cần đến “khói hoàng hôn” như thi sĩ Thôi Hiệu đời Đường thì nỗi nhớ ấy cũng sẵn đong đầy, thắm thiết, trĩu nặng. Buồn mà không cần ngoại cảnh bởi nỗi buồn ấy đã sâu sắc lắm rồi, vậy mới thấy tấm lòng yêu quê hương, đất nước của nhà thơ đến nhường nào. Cái hay của nhà thơ khi đầu thơ là gợn sóng của dòng sông tràng giang hùng vĩ thì cuối thơ lại là gợn sóng của tâm hồn đang rung động, của “lòng quê” đang trực trào nỗi nhớ.
Tràng Giang của Huy Cận mang một vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Với bút pháp nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” cực kỳ thành công, ông đã khắc họa được một bức tranh dòng sông Hồng vô cùng rộng lớn lại hùng vĩ, nên thơ nhưng ẩn sau trong đó chính là những hình ảnh nhỏ bé “cành củi”, “cánh chim” nhỏ bé lại cô đơn, lẻ loi trong không gian bao la lại hoang vắng, hiu quạnh đó. Thể thơ thất ngôn từng khổ được sử dụng rất thuần thục và sáng tạo, nó nói lên được tài hoa của ông, vẽ lên được trong mỗi khổ thơ là một bức tranh, một nỗi niềm thầm kín mang vẻ đẹp cổ điển đậm phong vị Đường thi. Ở những câu chữ sáng tạo, độc đáo ở nhà thơ như “sâu chót vót”, “dợn dợn”, dấu hai chấm thần tình lại mang thêm nét đẹp hiện đại cho bài thơ. Thủ pháp nói tương phản nổi bật làm rõ ràng lên cảm xúc của bài thơ, đọng lại trong người đọc là cảnh thiên nhiên hùng vĩ, mênh mông nhưng nỗi buồn lại thấm đượm ở trong, nỗi cô đơn, lẻ loi, nhỏ bé. Đó đồng thời cũng thể hiện tâm hồn người con xa xứ, lòng yêu nước thầm kín của tác giả.
Bài thơ “Tràng Giang” là một trong những bài thơ tiêu biểu, hay nhất của phong trào Thơ mới. Nó thể hiện cái buồn chung của thời đại thơ ca thuở bấy giờ, nỗi buồn trong sâu thẳm con người toát ra từ cái đẹp, cái mĩ lệ của thiên nhiên. Bài thơ bồi dưỡng, nuôi đắp cho tâm hồn mỗi người về tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng sâu nặng với tâm hồn dân tộc. Bài thơ sẽ còn mãi và đi vào lòng người để lại rất nhiều tình cảm, ấn tượng với phong cách rất “Huy Cận”.