Bài Hầu Trời được in trong tập Còn Chơi của Tản Đà, tác phẩm được viết vào năm 1921. Để giúp các bạn học sinh hiểu hơn về ý nghĩa tác phẩm cũng như nội dung, bài viết sau đây VerbaLearn sẽ tổng hợp dàn ý và văn mẫu xoay quanh việc phân tích tác phẩm Hầu Trời.
Dàn ý phân tích hầu Trời
Mở bài
– Giới thiệu về tác phẩm hầu Trời và tác giả Tản Đà.
Thân bài
– Khái quát về cuộc đời, sự nghiệp, phong cách sáng tác, những đóng góp của tác giả Tản Đà.
– Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, nguồn gốc của tác phẩm.
Phân tích
– Lý do được mời lên hầu trời và đọc thơ cho Trời cùng Chư Tiên nghe.
– Thái độ của mọi người khi nghe đọc thơ: Khen ngợi, tán thưởng.
– Thái độ của người thi nhân khi đọc và nói về tác phẩm của mình.
- Đọc rất cao hứng, sảng khoái, tự đắc.
- Kể chi tiết về các thể loại, tác phẩm.
- Giọng đọc đa dạng, hóm hỉnh.
– Thi nhân tâm sự về hoàn cảnh khó khăn của mình, khẳng định tên tuổi lai lịch.
– Khát khao được đồng cảm chia sẻ với những khó khăn trong cuộc sống.
– Nhận thấy trách nhiệm đối với đời, với người: “Thiện lương”, gánh vác, giúp đỡ mọi người.
– Là một người nghệ sĩ có tài có tâm, lối sống phóng khoáng tự do, không gò bó trong khuôn khổ xã hội phong kiến.
– Nhận xét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật.
Kết bài
– Khẳng định lại ý nghĩa nhân sinh của bài thơ và tài năng của tác giả Tản Đà.
Văn mẫu phân tích hầu trời – Mẫu 1
Nền văn học nước ta đã từng trải qua thời kỳ du nhập Tây Tàu nhố nhăng, Hán học thì suy tàn. Nhưng vẫn có những người nghệ sĩ giữ được lối sống phóng khoáng, không chịu ép mình trong khuôn khổ, thể hiện “cái tôi ngông” với cuộc đời. Tiêu biểu nhất phải kể đến là nhà thơ Tản Đà “người nằm vắt mình qua hai thế kỷ”. Bài Hầu Trời là một tác phẩm đặc sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật phong cách thơ của người thi sĩ này.
Tác giả được xem như là ngôi sao sáng vụt lên trên diễn đàn thơ văn dân tộc, là gạch nối giữa hai thời đại. Văn học trung đại và hiện đại, là người đặt nền móng cho thơ mới. Giữa lúc giao thời loạn lạc, ông có lối đi riêng cho mình, vừa gắn bó tha thiết với cội nguồn, nhưng vẫn không ngừng sáng tạo độc đáo, tài hoa, hồn thơ vô cùng lãng mạn, ngông nghênh, mới mẻ. Bài thơ Hầu Trời được in trong tập Còn chơi (1921), viết dưới dạng tự sự, kể lại một tình huống tưởng tượng cảnh nhà thơ lên gặp trời và ngâm thơ. Qua đó cho thấy rõ ý thức cá nhân và nhiệt độ riêng của tác giả về nghề hành văn và cuộc đời.
“Đêm xa chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn, thật phách, thật thân thế
Thật được lớn thêm sướng lạ lùng”
Câu chuyện của nhà thơ Tản Đà được mở đầu bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, tự nhiên, hóm hỉnh. Ông đã tự hỏi mình “có hay không”. Mới đêm qua thôi còn rất là thời sự, giúp cho độc giả tò mò thích thú chìm đắm vào dòng hồi tưởng của nhà thơ lúc nào không hay. Lý do được lên hầu trời là vì nhiều lúc buồn ngâm văn mà mang cả sông Ngân Hà làm cho ông Trời mất ngủ và thế là được lên trời. Trong cuộc hội kiến ấy, tác giả đã được gặp Trời, nàng Chư Tiên, Hằng Nga, Chức Nữ, Song Thành Trác Ngọc,….ai nấy đều tấm tắc vỗ tay tán thưởng cho tài năng của văn sĩ này.
“Đọc hết văn vần lại văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn”
Có thể qua việc tường thuật lại nhiệt độ của mọi người. Khi thưởng thức thơ văn của mình, Tản Đà cũng ngầm khẳng định tài năng của bản thân một cách khéo léo, tự nhiên. Trời nghe trời cũng lấy làm hay, tâm như nở dạ. Cơ lè lưỡi, chau đôi mày, lắng tai đứng, vỗ tay. Đây cũng là một kiểu ngông rất đáng yêu và tự tin. Dưới sự đón tiếp trang trọng, được ngồi ghế bành như các vị chư tiên khác, được uống nước trà để có giọng đọc tốt thì vị thi nhân trần gian lại càng cao hứng nói về các sản phẩm sáng tác của mình. Khối tình, khối tình con, thần tiền, giấc mộng, đài Gương, lên 6, quyển đàn bà Tàu, lên 8,…Qua đó, chứng tỏ rằng Tản Đà là một người nghệ sĩ tài hoa trên nhiều phương tiện thể loại đều đạt được nhiều thành công lớn. Nhờ việc sử dụng phép liệt kê nhằm tự khoe và tạo ra nhịp điệu trong câu thơ, ngồi trên ở ghế cao, trời cũng phải bật cười trước sự phá cách và tự quảng cáo ấy của thi sĩ ấy. Các chư tiên xung quanh cũng dặn dò truyền tai nhau giành lấy những tuyệt tác này.
“Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời nghe trời cũng bật cười
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn
“Anh gánh lên đây bán chợ trời”
Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại khác nhau theo quan điểm của bản thân: Văn lý thuyết, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời, lối văn dịch. Khiến ông trời cũng phải tấm tắc khen ngợi. “Văn đã giàu thay, lại lắm lối”, phong phú về kiểu loại, giọng điệu. “Văn thật tuyệt! Văn trần được thế chắc có ít! Hình thức lời văn đẹp như sao băng: Nội dung thi hùng mạnh như mây chuyển, êm như gió, tinh như sương, đầm như mưa, lạnh như tuyết”. Đó là những cảm xúc hết sức thán phục của trời dành cho người nghệ sĩ tài ba hiếm có ấy. Cái đẹp cái hay ở tài năng được miêu tả bằng những hình ảnh hùng vĩ cùng tự nhiên, vũ trụ. Thông qua việc mượn lời khen, tác giả cũng thể hiện được ý thức về tài năng của mình. Nên ông đã không hề ngần ngại mà mạnh dạn sưng lai lịch, tên tuổi của mình khi được hỏi.
“Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á Châu và Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.
“Nghe xong Trời ngợ một lúc lâu
Sai bảo thiên tào lấy sổ xét.”
“Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”
Với một cái ngông riêng biệt, cá tính, phóng túng của người nghệ sĩ, cái tôi ngông của một nhà Nho tài tử. Nhà thơ Tản Đà đã hiên ngang khẳng định không phải bị trời đày mà đảm nhận những sứ mệnh thiêng liêng, làm việc thiên lương của nhân loại. Đem văn thơ của mình mang đến những điều tốt đẹp cho người cho đời. Ở đây ta thấy được cái tôi cá nhân của tác giả Tản Đà và cũng cảm nhận được những giá trị, ý nghĩa của văn chương. Sau đó, người thi nhân chân chính đáng quý này đã phân trần về cảnh ngộ éo le khi ở trần gian. Tuy có tài có đức nhưng ông cũng gặp rất nhiều khó khăn, gian nan trong việc mưu sinh bằng nghề hành văn. Đất đai, vốn liếng, dụng cụ không có tất cả đều phải thuê mướn, thường xuyên phải làm bạn với sự nghèo khó đeo bám phải chạy lo miếng cơm manh áo từng ngày. Tài sản chính là tài năng ,là thứ bộc lộ văn thơ của bản thân, sự cần cù, chăm chỉ, chịu khó. Thời bấy giờ, đây không chỉ là tình cảnh riêng của ông mà còn là hoàn cảnh của nhiều thi sĩ yêu nước khác đối mặt. Vì cuộc sống, họ phải nhờ vả vào tài hoa của mình để sinh nhai nhưng cũng không khả quan hơn là bao, nhận lại nhiều đắng cay chua xót. Nhất là khi trong thời kỳ giao thời, chữ Quốc ngữ và những giá trị truyền thống của dân tộc bị suy thoái với Tây học.
Cũng nhân đây, nhà thơ chia sẻ giãi bày tâm sự và suy nghĩ về nghề viết. Ông được xem là người đặt nền móng cho thơ mới là bởi có một hồn thơ mang hơi thở hiện đại của thời đại mà còn vì ông là người đầu tiên “mang văn chương ra phố phường” và dùng nó để kiếm sống. Sau này ta phát hiện ra Tản Đà là một trích tiên, là tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Trời cũng thấu hiểu thông cảm và khuyên nhủ” rằng:
“Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”
Phải chăng tác giả có mơ mộng muốn được lên hầu trời cũng chính là do ở đó ông sẽ nhận được sự đồng cảm thấu hiểu, được tự do thể hiện cá tính riêng, không bị gò bó trong hẹp, trong những định kiến xã hội hà khắc bảo thủ. Dù có là mơ nhưng cũng đã lưu lại những kỉ niệm đẹp đáng nhớ và điều đó đã trở thành động lực tiếp thêm sức mạnh giúp cho tác giả phấn đấu hơn trong sự nghiệp sáng tác văn chương của mình. Tác phẩm Hầu trời đã đạt được nhiều sự sáng tạo, nghệ thuật độc đáo đặc sắc: thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, giọng điệu thoải mái tự nhiên pha chút hóm hỉnh, ngôn ngữ giản dị gần gũi, sống động. Bài thơ khép lại trong sự chia tay ngậm ngùi lưu luyến giữa người thi nhân và các Chư Tiên, con là sự tiếc nuối mong muốn của Tản Đà.
“Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đêm lên Hầu Trời”
Đọc Hầu Trời ta thấy được việc tác giả tập trung tả lại cảnh mình được đọc thơ cho Trời và các Chư Tiên nghe, tài năng công sức được công nhận tung hô, nên không dám mạnh dạn thể hiện “cái tôi” cá nhân, cái “ngông” của mình qua việc bản thân có nguồn gốc là một trích tiên, lại được đàm đạo trò chuyện với các cao nhân. Qua đó, cũng cho thấy rằng nhà thơ tự ý thức rất rõ tài hoa, giá trị đích thực của mình, đồng thời được khao khát khẳng định mình giữa cuộc đời, giữa xã hội thực dân nửa phong kiến tù túng u uất. Muốn thoát khỏi hiện thực cay đắng, thời cuộc nhiễu loạn không khí văn chương bị coi rẻ xem nhẹ, trở thành công cụ kiếm tiền bất đắc dĩ, thật xót xa biết bao! Hơn hết, vượt lên tất cả, tác giả còn khát khao mãnh liệt gánh vác việc đời, truyền bá thiên lương, những điều hay lẽ phải. Là một người có trách nhiệm đối với việc đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn cho mọi người. Có thể thấy trước tình hình lịch sử xã hội bấp bênh lúc bấy giờ, ông đã không hề cô đơn buồn bã hay bế tắc ngược lại vẫn sống rất ngông nghênh kiều bạc, tìm được hướng đi đúng đắn, cách giải quyết để chứng tỏ mình.
Qua bài thơ Hầu Trời, tác giả đã mạnh mẽ cho thấy cái tôi rất ngông của mình một cách phóng khoáng: Thể hiện cá tính, tự ý thức về tài năng giá trị của bản thân và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời. Với nhiều nét độc đáo về mặt thi pháp, nội dung, nghệ thuật. Tác phẩm là một sáng tác hay tiêu biểu cho thời kỳ giao thời giữa cái mới và cái cũ của văn chương trong những năm đầu thế kỉ XX.