Bài viết cung cấp dàn ý và các bài văn mẫu chọn lọc cho đề bài phân tích Tự Tình – Hồ Xuân Hương. Bài viết giúp độc giả tìm hiểu sơ lược thông tin về bài thơ Tự Tình cũng như cách phân tích bài thơ đầy đủ ý và hay nhất.
Dàn ý phân tích Tự Tình
Mở bài
– Các em trình bày những nét đặc sắc, tiêu biểu của nữ nhà thơ Hồ Xuân Hương. Nhà thơ được xem là bà chúa thơ Nôm của thời kỳ bấy giờ. Nữ thi nhân đã mang tên tuổi của mình gắn với những vầng thơ ngôn từ trân trọng, chất chứa tình cảm chân thành, vẻ đẹp trong trẻo của người phụ nữ. Trong đó chất chứa nỗi lòng cảm thông sâu sắc, thương xót cho số phận của những người phụ nữ.
– Vào đề: Giới thiệu bài thơ Tự Tình là một kiệt tác làm nên tên tuổi của thi nhân Hồ Xuân Hương , bài thơ thể hiện nỗi buồn tủi trước cảnh ngộ dang dở.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Thân bài
1. Hai câu đề
“Cảnh khuya văng vẳng trống canh dồn
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”
Nỗi niềm buồn tủi, chán chường thể hiện qua câu thơ “Cảnh khuya văng vẳng” không gian thời gian tĩnh lặng đêm khuya. “Trống canh dồn” sự dồn dập, gấp gáp vội vã của tiếng trống trong đêm khuya nghe tiếng trống dồn dập ẩn chứa sự bất an trong tâm hồn, nỗi lo sợ, bất an trong tâm trí.
Không gian rộng lớn “văng vẳng” cộng thời gian là đêm khuya. Lấy động tả sự tĩnh lặng. Thi nhân muốn nói lên sự cô đơn lạc lõng trong tâm hồn, thao thức giữa chốn không gian vắng lặng.
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Từ “trơ” ở đây hiểu là trơ trọi, sự đơn độc, đơn lẻ. Thể hiện nỗi buồn, sự cô đơn. Hồng nhan nhưng bạc phận. Trơ cái hồng nhan với nước non, “nước non” sự bao la, rộng lớn. Vẻ đẹp hồng nhan chan chứa nỗi buồn cô đơn, lẻ bóng phải một mình giữa đất nước, non sông rộng bao la ấy. Nỗi buồn xuyên thấu tâm hồn nặng trĩu, sự thiệt thòi thân phận người phụ nữ.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”. Nhà thơ giải sầu bằng men sầu. Câu “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”vừa là một hình ảnh đẹp thơ mộng, nhưng cũng là hình ảnh để ta gợi nhớ gửi gắm nỗi buồn. Cái buồn của một “vầng trăng khuyết”. Đối với thơ xưa, cảnh là tình, cảnh trăng khuyết gợi nhớ nỗi buồn dang dở của cuộc đời bà.
2. Hai câu thực
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
– Thi nhân đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ và đối lập để tạo nên sự sinh động của cảnh vật. Ngôn từ phong phú những động từ “xiên ngang, đâm toạc” để miêu tả một thiên nhiên tràn đầy sức sống. Kết hợp biện pháp đảo ngữ nhấn mạnh hành động dữ dội trong nỗi bi sầu, cô đơn của nhà thơ.
3. Hai câu kết
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
– “Ngán”: sự chán ngán, ngán ngẩm. Nhà thơ chán ngán nỗi đời bất hạnh, éo le, tình duyên đứt gãy, trải qua hai đời chồng, lận đận tình duyên.
– Từ “xuân” mang hai nghĩa mùa xuân hoặc chỉ tuổi xuân, tuổi đẹp nhất của người con gái. Mùa xuân đi rồi xuân lại với con người không như thiên nhiên được, đời người chỉ trải qua duy nhất một tuổi xuân. Đã qua rồi thì không thể quay trở lại được. Hai từ “lại lại” nếu tinh ý, chúng ta sẽ phân biệt được lại thứ nhất là thêm một lần nữa, từ “lại” thứ hai là sự trở lại là quay ngược lại thời gian. Mùa xuân của đất trời tuần hoàn lặp lại còn tuổi xuân mãi rời xa ta. Khi ở hoàn cảnh này, tâm trạng càng ngao ngán, chán nản
– Ở câu“ Mảnh tình san sẻ tí con con”
– “Mảnh tình”: Tình yêu không trọn vẹn
– “Mảnh tình san sẻ”: Càng làm tăng thêm nỗi chua xót ngậm ngùi, mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn nhưng ở đây còn phải san sẻ
– “Tí con con”: tí và con con đều là hai tính từ chỉ sự nhỏ bé, đặt hai tính từ này cạnh nhau càng làm tăng sự nhỏ bé, hèn mọn
– Mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn nay lại phải san sẻ ra để cuối cùng trở thành tí con con
– Số phận éo le, trái ngang của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải chịu thân phận làm lẽ, phải chịu tuổi hờn, cô đơn, hồng nhan nhưng bạc phận, sự bất lực không thể gồng mình chống cự lại với chế độ phong kiến cũ. Câu thơ nói lên cả nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa
4. Nghệ thuật
– Ngôn ngữ thơ điêu luyện, bộc lộ được tài năng và phong cách của tác giả:
– Sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu sức tạo hình, giàu giá trị biểu cảm, đa nghĩa
– Thủ pháp nghệ thuật đảo ngữ: câu hỏi 2, câu 5 và câu 6
– Sử dụng động từ mạnh: xiên ngang, đâm toạc.
Kết bài
– Khẳng định lại những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
– Thông qua bài thơ thể hiện giá trị hiện thực và bộc lộ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của một nhà thơ “phụ nữ viết về phụ nữ”
Phân tích Tự Tình – Mẫu 1
Nhà thơ Hồ Xuân Hương được xem là bà chúa thơ Nôm của thời kỳ bấy giờ. Nữ thi nhân đã mang tên tuổi của mình gắn với những vầng thơ ngôn từ trân trọng, chất chứa tình cảm chân thành, vẻ đẹp trong trẻo của người phụ nữ. Trong đó chất chứa nỗi lòng cảm thông sâu sắc, thương xót cho số phận của những người phụ nữ. Một trong những bài thơ mang lại tên tuổi và để lại dấu ấn đặc biệt với độc giả đó là bài thơ “Tự tình” được xem là kiệt tác của thi nhân, thể hiện nỗi buồn trước cảnh ngộ dang dở và thân phận làm lẻ và nói lên nỗi lòng của người phụ nữ thời phong kiến.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Hai câu mở đầu:
“Cảnh khuya văng vẳng trống canh dồn
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”
Nỗi niềm buồn tủi, chán chường thể hiện qua câu thơ “Cảnh khuya văng vẳng” không gian thời gian tĩnh lặng đêm khuya. “Trống canh dồn” sự dồn dập, gấp gáp vội vã của tiếng trống trong đêm khuya nghe tiếng trống dồn dập ẩn chứa sự bất an trong tâm hồn, nỗi lo sợ, bất an trong tâm trí. Không gian rộng lớn “văng vẳng” cộng thời gian là đêm khuya. Lấy động miêu tả sự tĩnh lặng, yên bình. Thi nhân muốn nói lên sự cô đơn lạc lõng trong tâm hồn, thao thức giữa chốn không gian vắng lặng ấy.
Ở câu “Trơ cái hồng nhan với nước non”, Từ “trơ” ở đây hiểu là trơ trọi, sự đơn độc, đơn lẻ. Thể hiện nỗi buồn, sự cô đơn, lạc lõng giữa không gian rộng lớn. Hồng nhan nhưng bạc phận, tình duyên trắc trở. Trơ cái hồng nhan với nước non, “nước non” sự rộng lớn tổng thể bao quát. Vẻ đẹp hồng nhan chan chứa nỗi buồn cô đơn, lẻ bóng phải một mình giữa đất nước, non sông rộng bao la ấy. Nỗi buồn xuyên thấu tâm hồn nặng trĩu, sự thiệt thòi thân phận người phụ nữ.
Từ “trơ” còn hàm chứa nhiều ngữ nghĩa hơn thế: “trơ” có nghĩa là tủi hổ: “Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ” (Nguyễn Du, Truyện Kiều); “trơ” cũng hàm ý mỉa mai cay đắng, xót xa khi đi với tổ hợp từ “cái hồng nhan”, thì ra “hồng nhan” đi với “bạc phận”, từ “hồng nhan” bị bỏ rơi, chẳng ai đoái hoài đến, đang “trơ” ra với “nước non” (không gian), với thời gian vô thủy vô chung. Càng nghĩ càng thấy phẫn uất, đắng đót, ngậm ngùi. Đời Hồ Xuân Hương sao chẳng thể vui với nước non, mà chỉ thấy “Bảy nổi ba chìm với nước non”, chỉ thấy “Trơ cái hồng nhan với nước non”? Nghĩa là Hồ Xuân Hương đau khổ những vẫn vững vàng bản lĩnh như “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” (Bà huyện Thanh Quan, Thăng Long thành hoài cổ).Thế nhưng, bi kịch vẫn cứ là bi kịch: “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”. Câu thơ nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lí Bạch:
“Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt
Uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu”
Hai câu thơ có hai hình ảnh ẩn dụ. Hương rượu như hương tình, lúc lên men dậy sóng nhưng cũng chóng nhạt phai nên cuộc đời chao đảo, ngả nghiêng. Thật là trớ trêu cho con tạo. Cái ngọt ngào nồng nàn chỉ thoảng qua còn lại là dư vị chua chát, đắng cay. Say rồi lại tỉnh gợi cái vòng luẩn quẩn, dở dang. Trăng đã xế như tuổi xuân đã qua mà chưa bao giờ có được hạnh phúc trọn vẹn. Hai hình ảnh gợi hai lần đau xót. Vầng trăng của Thuý Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du) là vầng trăng vỡ, còn của Xuân Hương mãi mãi là vầng trăng khuyết.
Bất lực, câu thơ chuyển sang một sự cám cảnh sinh tình. Hồ Xuân Hương nói:“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Trong quan điểm thẩm mĩ xưa, vầng trăng tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của người phụ nữ. Câu “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”vừa là một hình ảnh đẹp thơ mộng, nhưng cũng là hình ảnh để ta gợi nhớ gửi gắm nỗi buồn. Cái buồn của một “vầng trăng khuyết”. Đối với thơ xưa, cảnh là tình, cảnh trăng khuyết gợi nhớ nỗi buồn dang dở của cuộc đời bà.
Sang câu 5, 6 tứ thơ như đột ngột chuyển biến. Sự cụ thể trong miêu tả khiến việc tả cảnh trở nên thuần khiết. Một cảnh thực hoàn toàn : “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám”. “Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”. Hình ảnh sinh động và cảnh đầy sức sống. Một sức sống nhờ tài quan sát tài tình nhấn mạnh sự vùng vẫy mạnh mẽ. Thi nhân đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ và đối lập để tạo nên sự sinh động của cảnh vật. Ngôn từ phong phú những động từ “xiên ngang, đâm toạc” để miêu tả một thiên nhiên tràn đầy sức sống. Kết hợp biện pháp đảo ngữ nhấn mạnh hành động dữ dội trong nỗi bi sầu, cô đơn của nhà thơ. Như vậy, thông qua cách sử dụng ngôn ngữ giàu giá trị biểu đạt kết hợp với những biện pháp tu từ như đảo ngữ, cùng những sáng tạo trong việc xây dựng hình tượng, bốn câu thơ đầu của bài thơ “Tự tình ” đã làm nổi bật cảm thức về thời gian, cho thấy tâm trạng buồn tủi cũng như ý thức sâu sắc về bi kịch duyên phận đầy éo le, ngang trái của thi nhân Hồ Xuân Hương. Chính những yếu tố trên đã giúp bà trở thành “Bà Chúa thơ Nôm”, đồng thời cũng là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ với tiếng nói cảm thương và tiếng nói tự ý thức đầy bản lĩnh. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của “Bà chúa thơ nôm” chứ không phải của ai khác. Rõ ràng, dẫu đang rất buồn, rất cô đơn nhưng điều đó vẫn không suy giảm chất riêng của Hồ Xuân Hương. Bằng bản lĩnh, sức sống mãnh liệt, sự khao khát với cuộc đời khiến sự bất công của thời phong kiến qua cái nhìn đầy yêu đời khát khao hạnh phúc khiến bà luôn mạnh mẽ vượt qua nó dễ dàng hơn. Đó là sự lí giải về những phản kháng, đối nghịch trong bản chất bà, tạo nên những vần thơ châm biếm đối lập. Vũ khí ấy hơn hẳn chén rượu “say rồi tỉnh”. Đó là phương tiện kì diệu nâng đỡ tâm hồn tốt đẹp của bà. Chỉ như thế mới có thể hiểu tâm trạng, tiếng thở dài phản kháng của Hồ Xuân Hương, ở hai câu thơ kết:“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,Mảnh tình san sẻ tí con con!”.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
“Ngán”: sự chán ngán, ngán ngẩm. Nhà thơ chán ngán nỗi đời bất hạnh, éo le, tình duyên đứt gãy, trải qua hai đời chồng, lận đận tình duyên.
Từ “xuân” mang hai nghĩa mùa xuân hoặc chỉ tuổi xuân, tuổi đẹp nhất của người con gái. Mùa xuân đi rồi xuân lại với con người không như thiên nhiên được, đời người chỉ trải qua duy nhất một tuổi xuân. Đã qua rồi thì không thể quay trở lại được. Hai từ “lại lại” nếu tinh ý, chúng ta sẽ phân biệt được lại thứ nhất là thêm một lần nữa, từ “lại” thứ hai là sự trở lại là quay ngược lại thời gian. Mùa xuân của đất trời tuần hoàn lặp lại còn tuổi xuân mãi rời xa ta. Khi ở hoàn cảnh này, tâm trạng càng ngao ngán, chán nản
Ở câu“ Mảnh tình san sẻ tí con con”
“Mảnh tình”: Tình yêu không trọn vẹn
“Mảnh tình san sẻ”: Càng làm tăng thêm nỗi chua xót ngậm ngùi, mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn nhưng ở đây còn phải san sẻ
“Tí con con”: tí và con con đều là hai tính từ chỉ sự nhỏ bé, đặt hai tính từ này cạnh nhau càng làm tăng sự nhỏ bé. Mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn nay lại phải san sẻ ra để cuối cùng trở thành tí con con.Yêu đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế mà cuộc đời riêng thì vẫn: “Xuân đi xuân lại lại.”, điệp từ chỉ cái vòng luẩn quẩn vô vị của ngày tháng, cuộc đời. Những người có ý thức về giá trị sự sống thường rất sợ thời gian. Thời gian không đợi một ai, tuổi trẻ trôi qua một cách nhanh chóng tẻ nhạt, cuộc đời vẫn mập mờ không lối thoát cô đơn lạc lòng giữa thời gian. Cuộc đời mãi quạnh hiu chẳng có thay đổi gì, cơ hội tìm kiếm hạnh phúc càng khó. Mùa xuân của đất trời tuần hoàn lặp lại còn tuổi xuân sẽ mãi ra đi. Trong tình cảnh này, lòng người càng thêm chán ngán:
“Ngày xuân tuổi hạc càng cao
Non xanh nước biếc càng ngao ngán lòng”
(Nguyễn Khuyến)
Từ ngán đặt ở đầu câu với trọng âm của nó có ý nghĩa nhân mạnh tâm trạng chán chường. Từ lại thứ nhất là trợ từ có nghĩa là thêm lần nữa, từ lại thứ hai là động từ, nghĩa là trở về. Cụm từ xuân lại lại mang ý nghĩa biểu cảm tâm trạng đang bị dày vò, day dứt. Trong khi ấy mảnh tình đã nhỏ mà cũng phải san sẻ nên chỉ còn tí con con. Từ láy cỏn con là quá nhỏ còn điệp từ con con là nhỏ dần, đến lúc sẽ chẳng còn thấy nữa. Nên biện pháp tăng tiến trong câu thơ cho thấy thân phận làm lẽ thật tội nghiệp, hạnh phúc đang hao mòn dần và dự báo sẽ chẳng còn.
Thi nhân người phụ nữ luôn khao khát hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống mãnh liệt, yêu đời lại có tình duyên trắc trở, bất hạnh, điều đó tạo nên trong thơ bà có khi là sự phản kháng trong bất lực. Bà là người mạnh mẽ nung nấu hoài bão mang lại sự công bằng cho thận phận của người phụ nữ lúc bấy giờ. Dù cho, không thể thực hiện được, trách nhiệm là ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng đã đối lập thật gay gắt với cơ cấu xã hội chung. Trong chiều hướng ấy, “Tự tình” là một bài thơ đòi quyền hạnh phúc, một lời phản kháng độc đáo lại chứa chan tiếng nói bênh vực của người phụ nữ, tạo được sự thấu hiểu, đồng cảm với những cảnh ngộ éo le, trắc trở.
Qua bài thơ này, ta càng thấy rõ Hồ Xuân Hương đã đưa ngôn ngữ dân gian, tiếng nói đời thường vào lời ca, bình dị hoá và Việt hoá thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bà xứng đáng là “Bà chúa thơ Nôm” của nền thi ca dân tộc. Điều này khiến bà không tránh khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một “mảnh tình” đang bị san đi, sẻ lại… chia xới. Đối với trái tim thiết tha với đời kia, điều đó như một vết thương, nhức nhối. Người ta nói rằng thơ là tâm trạng, là một bức tranh thông điệp thẩm mĩ. Đọc “Tự tình”, là thấu hiểu được tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương.
Phân tích Tự Tình – Mẫu 2
Hồ Xuân Hương quê ở Tỉnh Nghệ An nhưng bà sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long. Cuộc đời, tình duyên của bà gắn với nhiều câu chuyện éo le ngang trái. Bà đi nhiều nơi và quen biết với nhiều người nổi tiếng trong đó có Nguyễn Du. Thơ của bà chủ yếu viết về người phụ nữ, với giọng thơ đậm chất văn học dân gian từ đề tài đến cảm hứng, ngôn ngữ và hình tượng, vì vậy mà bà được mệnh danh là “Bà Chúa Thơ Nôm”. Tự Tình (bài II) nằm trong chùm thơ Tự Tình gồm ba bài của Hồ Xuân Hương, bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú. Bài thơ như lời than thở của Hồ Xuân Hương về duyên phận éo le, với khát vọng có được hạnh phúc và thứ tưởng chừng đơn giản như vậy nhưng đối với bà sao nó lại xa xỉ đến thế.
Khi đọc nhan đề bài thơ chắc hẳn ai cũng sẽ cảm nhận được một cảm xúc gì đó đượm buồn. Nhan đề “Tự tình” ở đây muốn nói về sự cô đơn buồn tủi khi mang phận hồng nhan, sống trong xã hội mà thân phận người phụ nữ vô cùng nhỏ nhoi, thấp bé, bị chèn ép và không được xem trọng. Tự tình là tự đối diện với chính bản thân mình giãi bày những nỗi lòng không nói thành lời, không có ai bên cạnh để an ủi hay chia sẽ. Đó chính là những gì mà Hồ Xuân Hương phải chịu đựng.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Mở đầu bài thơ là cảnh tượng đêm khuya không một bóng người khi tất cả mọi thứ đã chìm vào giấc ngủ, cái tiếng “Văng vẳng” đó càng gợi tả cho ta một không gian vắng lặng ảm đạm, nhưng tiếng trống thì cứ dồn dập nó như muốn xé toạc cái không gian yên tĩnh. Cứ mỗi đêm như vậy nỗi niềm bất an cứ hiện lên trong đầu của người con gái ấy, những tiếng trống như muốn thúc dục báo hiệu cho bà biết rằng thời gian đang trôi đi, cũng như tuổi xuân của người con gái cũng dần trôi theo thời gian và nó sẽ không vì bất kì ai mà dừng lại. Tiếng trống lại khiến cho tâm can của tác giả như bị thiêu đốt, nó như thể hiện nỗi tuyệt vọng những mong ngóng về hạnh phúc của người con gái dưới cái xã hội phong kiến, nơi mà người phụ nữ không được xem trọng. Cũng chính cái không gian đêm khuya đó những cảm xúc cô đơn trong tác giả dâng trào mãnh liệt hơn bao giờ hết, tâm trạng đã rối nay lại càng rối hơn, những nỗi lo âu buồn bã cứ dần hiện ra. Chỉ một từ “trơ” dường như phần nào đã diễn tả được cái tâm trạng mong ngóng chờ đợi chồng trở về, “trơ” được nhấn mạnh nhằm nói đến sự cô độc, những vết thương lòng như bị những con dao cứa vào, nỗi đau này chưa lành thì nỗi đau khát lại chồng lên, ngoài ra từ “Trơ” ở đây còn được nhắc đến với ý nghĩa sự bản lĩnh mặc kệ miệng thế gian, “cái hồng nhan” ý đang nhắc đến những người phụ nữ, “nước non” ở đây nói tới xã hội to lớn, những phong tục nghiệt ngã áp đặt lên thân phận người con gái ấy, câu thơ như muốn nói lên rằng vì quá đau buồn mà bà mặc kệ những lời nói của xã hội, mặc kệ những lời nói cay nghiệt lên thân phận người phụ nữ thấp hèn.
Những lúc muộn phiền hầu hết chúng ta đều tìm đến rượu để giải sầu và tác giả của chúng ta cũng thế bà muốn mượn rượu để quên đi cái thân phận hẩm hiu của mình:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
Bà muốn nâng chén rượu để giải sầu để quên đi hết những muộn phiền, quên hết sự đời, nhưng “say lại tỉnh” khi uống rượu những nỗi sầu trong lòng bà không vơi đi mà nó còn hiện rõ hơn. Nó như cái vòng luẩn quẩn muốn thoát ra nhưng không tài nào thoát ra được. Mong muốn có được tình yêu, nhưng tình yêu và hạnh phúc như một trò đùa của số phận đã sắp đặt cho cuộc đời của Hồ Xuân Hương nói riêng và tất cả phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. “Vầng trăng bóng xế” trăng đã tàn màn đêm cũng sắp tan, tuổi xuân cũng trôi qua một cách thầm lặng đó chính là hiện tượng tự nhiên của con người bởi vì đâu ai có thể “lột da sống đời” được, tuổi xuân thì cứ trôi như thế nhưng niềm mong mỏi chờ đợi chồng quay về, mong mỏi có được hạnh phúc của người con gái thì vẫn chưa được trọn vẹn được thể hiện qua câu “khuyết chưa tròn”. Hai câu thơ được tác giả sử dụng nghệ thuật đối lập một cách khéo léo càng khắc hoạ được thân phận hồng nhan bạc mệnh ấy.
Hai câu tiếp theo Hồ Xuân Hương muốn diễn tả sự phẫn uất, tức giận muốn phản kháng, và hai câu thơ này nó như một sự đột phá của tác giả:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Câu thơ như sự tức giận, dồn nén trong lòng của tác giả bấy lâu thì hôm nay mới được bộc phát, giọng điệu của câu thơ có chút gì đó tức giận và mạnh mẽ với những từ như “xiên”, “đâm”. Tác giả đã mượn hình ảnh thiên nhiên cụ thể là những đám rêu, đám mây, hòn đá để nói lên những uất ức trong lòng, đá và rêu tuy nhỏ bé nhưng với nghị lực sống vô cùng lớn, nó như đại diện cho người phụ nữ trong xã hội. Kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật sự phẫn uất của bà, câu thơ đã thể hiện được cá tính mạnh mẽ của “Bà chúa thơ nôm” một sự ngang ngược muốn đập phá tất cả mọi thứ.
Sau khi những bực tức đi qua nhường chỗ cho những khát khao được sống một cuộc đời hạnh phúc ngán ngẩm và buồn chán với cuộc sống hiện tại:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Mùa xuân của đất trời, mùa xuân của tuổi trẻ tất cả đều trôi qua khiến cho tác giả ngán ngẩm, mùa xuân của đất trời thì đi rồi trở lại, nhưng tuổi trẻ của người con gái đã mất thì không bao giờ lấy lại được. “Mảnh tình san sẻ” một tình yêu đã không được trọn vẹn nay lại phải ngậm ngùi chia sẻ cho người khác, đó chính là cái đắng cay của người phụ nữ ngày xưa khi phải chịu kiếp chung chồng. “Tí con con” làm cho ta cảm nhận được sự hèn mọn khi phải chờ đợi một tình yêu nhỏ bé, sự không trọn vẹn của hạnh phúc nay chỉ còn tí con con.
Với cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh vô cùng giản dị làm cho người đọc cảm nhân hết được giá trị mà tác giả truyền đạt, kèm theo đó là nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với thể thơ thất ngôn bát cú đường luật tác giả đã cho người đọc cảm nhận bài thơ một cách chân thực. Bài thơ cho chúng ta thấy được phần nào những tủi nhục của người phụ nữ trong thời đại phong kiến, nơi mà người phụ nữ không có tiếng nói và không có địa vị trong xã hội, dù đã cố gắng để vươn lên. Chúng ta còn thấy được những khát khao có được hạnh phúc mãnh liệt không chỉ của Hồ Xuân Hương mà còn là mong muốn của tất cả phụ nữ. Đó chính là một vẻ đẹp trong thơ văn của Hồ Xuân Hương.
Là một phụ nữ ai ai cũng mong muốn có được một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn nhưng số phận đã không mỉm cười với bà, Hồ Xuân Hương là người phụ nữ mạnh mẽ, bà đã dám nói lên những nỗi đau, sự chán nản mà không chỉ có bà chịu đựng mà đó còn là nỗi đau của tất cả phụ nữ phải chịu đựng. Vì vậy, chúng ta hãy trân trọng những người phụ nữ đang bên cạnh nhé!