Vợ Nhặt là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng của Kim Lân. Bài viết sau đây VerbaLearn sẽ trình bày đến độc giả dàn ý và 20 bài văn mẫu hay nhất phân tích tác phẩm Vợ Nhặt. Bài viết mang đến những thông tin đầy đủ nhất về nhà văn Kim Lân cũng như cách phân tích một tác phẩm nghệ thuật chi tiết.
Dàn ý phân tích Vợ Nhặt
Mở bài
- Giới thiệu nhà văn Kim Lân là cây bút chuyên viết về truyện ngắn. Nhà văn thường viết về nông thôn và người nông dân.
- Bằng lối hành văn chân thật về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ – những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Một trong những tác phẩm nổi bật mang lại tên tuổi của ông lúc bấy giờ không thể không biết đến đó là tác phẩm vợ nhặt.
Thân bài
Nhân vật anh Tràng
Vẻ bề ngoài, lai lịch của nhân vật Tràng
- Tràng là chàng trai nông dân nghèo khổ, cuộc sống cơ cực từ nhỏ làm nghề đẩy xe bò thuê, gia cảnh nghèo khó gánh nặng gia đình và đang sống cùng mẹ già ở xóm Ngụ Cư để thuận tiện phụng dưỡng mẹ già.
- Bị người đời khinh miệt, không ai thèm tiếp xúc, giao du nói chuyện từ trẻ con tới người già đều ghẹo khinh thường Tràng mỗi khi Tràng đi làm về.
- Bề ngoài không đẹp như bao người khác mà ngược lại xấu xí, thô kệch, quê mùa, hai con mắt nhỏ tí tẹo, gà gà đắm bào bóng chiều.
- Hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Đầu cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
Tính cách của Tràng
- Tính cách: ngờ nghệch, vô tư “vừa đi vừa tủm tỉm cười”, thích chơi với đám trẻ con.
- Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy.
- Là người đàn ông nhân hậu, tốt bụng, phóng khoáng: lúc ban đầu không có ý định tìm vờ chỉ do lòng tốt muốn giúp đỡ người khác thấy người phụ nữ bị đói bụng nên a ra tay giúp đỡ cho ăn. Chính sự lòng tốt và sự thật thà của Tràng thì Thị đã có ý định theo anh về nhà và Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng đưa Thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua 2 hào dầu thắp sáng trong đêm đầu có vợ.
- Tính cách Tràng sau khi lấy được cô Thị trở thành một người đàn ông có trách nhiệm với gia đình, ngoan ngoãn hiếu thảo với mẹ, tránh được sự miệt thị khinh thường của người khác trong làng.
- Tóm lại, Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.
- Tràng là nhân vật điển hình cho người nông dân lao động nghèo khổ, dù bất cứ trong hoàn cảnh đen tối nào vẫn luôn luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc gia đình và tin vào cuộc sống ở tương lai.
→ Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng là anh phu xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý sống động với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động bằng ngòi bút sắc sảo. Qua nhân vật Tràng, nhà văn phản ánh mặt đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo với vẻ đẹp tâm hồn của họ.
Nhân vật cô Thị
Chân dung
- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
- Khi nghe câu hò vui của Tràng, Thị đã vui vẻ giúp đỡ đó chính là biểu hiện sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo lúc bấy giờ
- Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn Trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”
- Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ cùng về”, Thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để Thị bấu víu giành giật lấy sự sống.
→ Cái nghèo cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình con người mà cả tính cách nhân cách của con người cũng thay đổi theo. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc cho hoàn cảnh cơ cực đói khổ, thiếu ăn thiếu mặc của Thị vì đó không phải do bản chất con người Thị như vật mà do hoàn cảnh thực tại của sự nghèo đói làm Thị thay đổi cách nhìn nhận.
Phẩm chất
Có khát vọng sống mãnh liệt:
- Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì Thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
- Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, khiến thị thất vọng, nhưng thị không hề phàn nàn với Tràng. Mặc dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội được sống và không bị chết vì đói.
- Thị là cô gái ngoan hiền, tử tế nết na.
- Trên đường về, Thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, Thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
- Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
- Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào Thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
- Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
- Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt Thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.
→ Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm tạm thời trong một khoảnh khắc nào đó chứ không lấy đi hết nhân cách cao đẹp, tâm hồn lương thiện tốt bụng vốn có của con người.Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hy vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
Nhân vật cụ Tứ
Chân dung
- Là một bà mẹ nghèo, già nua (lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già), là dân ngụ cư.
- Ngoại hình: Dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ
- Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch “bà lão phấp phỏng”.
- Bà không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người đàn bà lạ trong nhà, bà rất ngạc nhiên: “quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “sao lại chào mình bằng u?”
- Sau tất cả sự ngạc nhiên, bà đã hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoè đi”:
- Bà thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ “Chao ôi”, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm làm nồi … còn con mình thì …”.
- Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, có lỗi với con trai bởi không thể lo được chuyện dựng vợ gả chồng cho con chu đáo.
- Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà, thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa con trai: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được … ”
- Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “các con đã phải duyên … u cũng mừng lòng”, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” chấp nhận đứa con dâu vừa được nhặt về.
- Bà cụ Tứ dân lo lắng cho cuộc sống các con sau này: “chúng nó có nuôi nhau sống qua được cơn đói khát này không”, “vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không”
Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng
- Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”,
- Nói về tương lai với niềm lạc quan “biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”
- Bảo ban các con làm ăn: “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có đàn gà cho xem”.
→ Nhân vật bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm hi sinh vì hạnh phúc của con. Bà là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam.
Tình huống truyện
- Tình huống: Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí, cục mịch, đại diện cho lớp dân lao động nghèo bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không.
- Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh thấy làm lạ bàn tán xôn xao
- Tình huống éo le: hoàn cảnh gia đình và xã hội nạn đói năm 1945 hoành hành ở nước ta lúc bấy giờ không cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, đói khổ, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau.
→ Mang lại những giá trị nhân văn sâu sắc với những con người cùng cực bám víu lấy nhau để vượt qua nạn đói khắc nghiệt. Với tính cách thật thà chất phát của anh Tràng và nàng dâu đảng đang ngoan hiền của Thị và người mẹ hết mực yêu thương con trai và con dâu
Kết bài
- Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những tác phẩm vô cùng thành công và để lại tên tuổi của Kim Lân. Với những giá trị, ý nghĩa, thông điệp sâu sắc của mình, tác phẩm đã gây nhiều dấu ấn quan trọng trong lòng bạn đọc trong mọi thời đại.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc: người đọc hiểu và cảm thông với cảnh ngộ thương tâm, rẻ rúng của người lao động trong nạn đói, tố cáo thực dân, phát xít, ngợi ca khát vọng sống trong cảnh cơ cực.
Phân tích Vợ Nhặt mẫu 1
Nhà văn Kim Lân là cây bút chuyên viết về truyện ngắn. Nhà văn thường viết về nông thôn và người nông dân. Những trang viết với ngôn từ đặc sắc, sinh động mô tả phác họa về phong tục những thú vui chơi và sinh hoạt văn hóa tổ chức của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, hay cách gọi khác là “những thú vui đồng quê, mộc mạc,…” Bằng lối hành văn chân thật về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ – những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. Một trong những tác phẩm nổi bật làm nên tên tuổi của ông là tác phẩm “ Vợ nhặt”
Ngay từ cái tên đề vợ nhặt, nhà văn đã dẫn dắt người đọc khám phá hết cuộc sống nghèo đói, khốn khổ tột cùng, bần cùng nhất của thời đại lúc bấy giờ. Truyện ngắn vợ nhặt ra đời năm 1945 nạn đói đi vào lịch sử của nước ta. Cái tên “ Vợ nhặt” là chi tiết và là tình huống làm nên cuộc đời của các nhân vật. Mở đầu cho tác phẩm là hình tượng nhân vật anh Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra,…”
Hình tượng nhân vật Tràng được nhà văn khắc họa là chàng trai nông dân nghèo khổ, cuộc sống cơ cực từ nhỏ làm nghề đẩy xe bò thuê, gia cảnh nghèo khó gánh nặng gia đình và đang sống cùng mẹ già ở xóm Ngụ Cư để thuận tiện phụng dưỡng mẹ già. Không những thế với diện mạo xấu xí của Trang nên bị người đời khinh biệt, từ trẻ con tới người lớn trong làng không ai thèm tiếp tiếp xúc, giao du nói chuyện từ trẻ con tới người già đều ghẹo khinh thường Tràng mỗi khi Tràng đi làm về. Bề ngoài không đẹp như bao người khác mà ngược lại xấu xí, thô kệch, quê mùa, hai con mắt nhỏ tí tẹo, gà gà đắm bào bóng chiều. Đặc biệt là hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Đầu cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mồng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu Tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực nữa rồi. Khung cảnh buồn thiu, ảm đạm, đầy ám ảnh đen tối mịt mù bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”. Nhưng không vì vậy mà tính cách của Tràng bị tha hóa bởi cái nghèo đói cái khổ. Anh Tràng vẫn giữ được đức tính hiền lành, thật thà, tốt bụng vốn có của mình.
Tính cách của Tràng nhìn tuy có ngờ nghệch, vô tư “vừa đi vừa tủm tỉm cười”, thích chơi với đám trẻ con. Nhưng Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Tràng là người đàn ông nhân hậu, tốt bụng, phóng khoáng, lúc ban đầu không có ý định tìm vợ mà chỉ do lòng tốt muốn giúp đỡ người khác, khi bắt gặp người phụ nữ bị đói bụng nên a ra tay giúp đỡ cho ăn, chỉ là ăn bánh đúc nhưng là bước ngoặt của cuộc đời Tràng và có được vợ hiền một cách rất bất ngờ. Chính sự lòng tốt và sự thật thà của Tràng thì Thị đã có ý định theo anh về nhà và Tràng vui vẻ chấp nhận làm vợ ngoan dâu thảo. Tràng đưa Thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua 2 hào dầu thắp sáng trong đêm đầu có vợ. Tính cách Tràng sau khi lấy được cô Thị trở thành một người đàn ông sống có trách nhiệm với gia đình, ngoan ngoãn hiếu thảo với mẹ, tránh được sự miệt thị, khinh thường của mọi người trong làng. Ta thấy nhân vật Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Tràng là nhân vật điển hình cho người nông dân lao động nghèo khổ, dù bất cứ trong hoàn cảnh đen tối nào vẫn luôn luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc gia đình và tin vào cuộc sống ở tương lai. Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng là anh phụ xe bò cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý sống động với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động bằng ngòi bút sắc sảo. Qua nhân vật Tràng, nhà văn phản ánh mặt đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo với vẻ đẹp tâm hồn của họ.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn nhất, khổ cực nhất trong nạn đói năm 1945. Tác phẩm “vợ nhặt” là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mồng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm: Anh ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ đến cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm
Viết về người nông dân không phải là đề tài mới hay hiếm gặp mà nó nhiều nhan nhản. Cái cốt của một tác phẩm có thành công với đề tài này hay không là do sức hấp dẫn của những cây bút. Nếu như Nam Cao thành công khi khắc họa thành công nhân vật Chí Phèo nhằm nói lên sự tha hóa bần cùng của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến thì Kim Lân cũng khắc họa thành công người nông dân tên Tràng trong truyện ngắn Vợ Nhặt của ông. Vẫn là đề tài nông dân ấy nhưng Kim Lân đã khơi được cái chưa ai khơi là thân phận rẻ rúng bị coi như rơm rác của con người. Đặc biệt một lần nữa qua nhân vật Tràng nhà văn lại khẳng định những nét đẹp trong tâm hồn của người nông dân Việt Nam.
Tài năng của tác giả Kim Lân ở cách xây dựng tình huống truyện vô cùng thú vị và độc đáo làm thay đổi số phận của anh Tràng. Câu chuyển được chuyển hướng một cách đầy bất ngờ và lí thú làm thu hút độc giả. Việc lấy vợ, lấy chồng lập gia đình là việc trọng đại của một đời người, thế nhưng trong câu truyện này nhặt được vợ một cách bất ngờ khiến người ta phải đặt ra câu hỏi, lấy vợ là sự tìm hiểu lâu dài, hiểu về nhau thật kỹ sau một thời gian qua lại thì mới tiến tới hôn nhân. Vợ của nhân vật Tràng thiệt thòi biết mấy vì không có một lễ cưới hỏi linh đình không làm mâm cơm làm lễ gia tiên gì cả. Chỉ là theo Tràng về nhà làm vợ mà thôi. Sự nghèo khó đã bỏ qua hết những lễ nghi vốn là truyền thống bao đời của dân tộc ta, sự nghèo khó đã đẩy những con người khốn khổ xích lại gần nhau hơn, họ tìm đến nhau để nương tựa vào những lúc khó khăn. Họ hy vọng một ngày trong tương lai cuộc sống sẽ đỡ vất vả và có được hạnh phúc một cách trọn vẹn.
Nhân vật Thị là vợ của Tràng. Chúng ta phân tích chân dung chung của Thị. Cô có ngoại hình gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt, quần áo mặc tả tơi như tổ đỉa. Cho thấy cuộc sống đầy cơ cực đói khổ mà Thị phải trải qua, không có cơm ăn đói kém nên mới ốm nhôm gầy gò chỉ nhìn rõ nhất là hai con mắt, da thì xám xịt, không có áo mặc nên mặc đồ rách tả tơi. Thế nhưng cuộc đời của Thị thay đổi một cách hết sức bất ngờ, ngẫu nhiên là khi nghe câu hò vui của Tràng thì cô Thị đã vui vẻ giúp đỡ thể hiện sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo đó chính là biểu hiện sự mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc”. Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ cùng về”, Thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để Thị bấu víu giành giật lấy sự sống.
Cái nghèo cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình con người mà cả tính cách nhân cách của con người cũng thay đổi theo. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc cho hoàn cảnh cơ cực đói khổ, thiếu ăn thiếu mặc của Thị vì đó không phải do bản chất con người Thị như vật mà do hoàn cảnh thực tại của sự nghèo đói làm Thị thay đổi cách nhìn nhận. Thị là một cô gái có khát vọng sống mãnh liệt không chịu đầu hàng số phận. Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về làm vợ mà không cần sính lễ vì Thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ. Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ như phong tục truyền thống của dân tộc ta từ bao đời nay đã lưu truyền vì Thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ và ngày ngày phải đối mặt với cái đói cái cùng cực của xã hội lúc bấy giờ.
Nhưng ngược lại, điều mà Thị không ngờ tới là khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, khiến Thị thất vọng, nhưng Thị không hề phàn nàn với Tràng. Thị về nhà Tràng chứng kiến khung cảnh xóm ngụ cư hiện lên đìu hiu, buồn bã, ảm đạm như những con người sống trong xóm nghèo đó “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma…”Những người hàng xóm tò mò hỏi Tràng về người phụ nữ đi bên cạnh Tràng. Họ tò mò vì một người nghèo khổ xấu xí như Tràng mà cũng có gái theo. Nhưng có người cũng thực tế hơn họ cho rằng trong thời kỳ đói khổ miếng ăn không có như hiện nay mà còn cưới vợ vác thêm một miệng ăn về nhà thì khác nào vác một cục nợ.
Mặc dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội được sống và không bị chết vì đói. Cứ như thế Tràng và thị đi trong những tiếng xì xào, bàn tán nhưng họ cứ mặc kệ cứ bước đi bên nhau và hy vọng vào ngày mai tươi sáng hơn. Thị là cô gái ngoan hiền, tử tế nết na và là một cô vợ ngoan, cô dâu thảo. Tình tiết trong câu truyện là khi trên đường về, Thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, hình ảnh vợ Tràng hiện lên làm người đọc không khỏi xúc động “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”.Thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình. Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình. Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào Thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu. Cuộc gặp gỡ giữa mẹ chồng nàng dâu cũng khiến nhiều người phải ám ảnh bà cụ Tứ mẹ Tràng “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực. Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt Thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.
Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm tạm thời trong một khoảnh khắc nào đó chứ không lấy đi hết nhân cách cao đẹp, tâm hồn lương thiện tốt bụng vốn có của con người.Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hy vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
Bà cụ Tứ mẹ của Trang bản chất lương thiện, phúc hậu, tốt bụng. Là một bà mẹ nghèo, già nua (lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già), là dân ngụ cư. Nhìn ngoại hình dáng đi lọng không, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già. Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch “bà lão phấp phỏng”. Bà không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người đàn bà lạ trong nhà, bà rất ngạc nhiên: “quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “sao lại chào mình bằng u? Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác bà cũng đã hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoè đi”. Bởi vì bà cụ Tứ rất thương yêu con trai của mình, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ “Chao ôi”, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm làm nồi … còn con mình thì …”. Thấy tủi hờn cho chính số phận của mình cảm thấy có lỗi với con trai vì không thể tự mình lo cho con mình gả vợ gả chồng một cách chu đáo nhất theo đúng phong tập tập quán về truyền thống làm lễ nghĩa gia tiên, chuẩn bị mâm cơm nhỏ mời họ hàng gia đình hai bên.
Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà, thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa con trai: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được … ” nhưng bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “các con đã phải duyên … u cũng mừng lòng”, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” chấp nhận đứa con dâu vừa được nhặt về. Bà cụ Tứ dần dần lo lắng cho cuộc sống các con sau này: “chúng nó có nuôi nhau sống qua được cơn đói khát này không”, “vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không”
Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng: Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”. Nói về tương lai với niềm lạc quan “biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”bà trò chuyện với hai con bảo ban các con làm ăn: “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có đàn gà cho xem”. Trong bữa cơm ấy ba con người trong câu chuyện lại ăn uống rất ngon. Họ còn nói chuyện với nhau về tin đồn Việt Minh phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Trong bữa cơm ấy, ba con người khốn khổ cùng mơ ước có một ngày được thấy ngọn cờ đỏ sao vàng, được sống một kiếp sống khác. Họ cùng nhau tin tưởng vào tương lai.
Nhà văn Kim Lân thật tài tình và tinh tế trong cách xây dựng nhân vật và đã tạo dựng những tình tiết thay đổi tâm lý nhân vật trong đó, bà cụ Tứ với những suy nghĩ đau đớn chua xót của một người mẹ thương con, được tác giả Kim Lân tái hiện qua những trang viết vô cùng xúc động làm lay động trái tim người đọc. Tác giả tái hiện một nhân vật cụ Tứ-người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm hi sinh vì hạnh phúc của con. Bà là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam.
Nhà văn đã xây dựng một tình huống truyện thu hút bạn đọc phân tích tâm lý nhân vật Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí, cục mịch, đại diện cho lớp dân lao động nghèo bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không. Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh thấy làm lạ bàn tán xôn xao. Tình huống éo le: hoàn cảnh gia đình và xã hội nạn đói năm 1945 hoành hành ở nước ta lúc bấy giờ không cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, đói khổ, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau. Mang lại những giá trị nhân văn sâu sắc với những con người cùng cực bám víu lấy nhau để vượt qua nạn đói khắc nghiệt. Với tính cách thật thà chất phát của anh Tràng và nàng dâu đảng đang ngoan hiền của Thị và người mẹ hết mực yêu thương con trai và con dâu.
Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những tác phẩm vô cùng thành công và để lại tên tuổi của Kim Lân. Với những giá trị, ý nghĩa, thông điệp sâu sắc của mình, tác phẩm đã gây nhiều dấu ấn quan trọng trong lòng bạn đọc trong mọi thời đại. Tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc: người đọc hiểu và cảm thông với cảnh ngộ thương tâm, rẻ rúng của người lao động trong nạn đói, tố cáo thực dân, phát xít, ngợi ca khát vọng sống trong cảnh cơ cực. Qua đó, tác giả muốn nhấn mạnh tình yêu thương giữa con người với nhau luôn tồn tại bất diệt.