Dàn ý phân tích bài thơ Đất Nước
Mở bài
Giới thiệu về tác giả và hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
Thân bài
Đất nước có từ bao giờ
- Đất nước có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ những ngày xa xưa.
- Gợi ra những truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết.
- Sự tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung, gợi lại những cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng.
- Truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
- Đất Nước có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục.
- Tóc mẹ thì bới sau đầu, nhắc người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa.
- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn, chính là đại diện cho truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ chồng.
- Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường biết làm nhà, biết trồng lúa,…
Đất nước có từ bao giờ
- Về không gian địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, hò hẹn “là nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”,… là không gian gần gũi, thân thiết. Nhưng Đất Nước cũng lại mang dáng vẻ kỳ vĩ lớn lao như những “núi bạc”’, “biển khơi” là nơi nhân dân tìm về sau những ngày tháng xa quê hương.
- Về thời gian lịch sử:
- Quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông.
- Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống.
- Trong tương lai đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc cả Đất Nước.
Tư tưởng Đất nước của nhân dân
- Trên phương diện không gian địa lý.
- Cảm nhận Đất Nước qua những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng nhắc tên chúng một cách dày đặc trong từng ý thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với quê hương, đất nước.
- Gợi nhắc những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Nhấn mạnh việc đất nước chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc một nhà của nhân dân ta.
- Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình cảm vợ chồng, là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, nhắc lại thuở dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi còn gợi lại cả truyền thống hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương.
- Khẳng định một cách mạnh mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do nhân dân cùng góp công, góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.
Phương diện thời gian lịch sử
- Suốt 4000 năm lịch sử, nhân dân luôn đứng dậy đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ chính là những người làm ra Đất Nước.
- Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần.
Trên phương diện văn hóa
- Tác giả đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa tiêu biểu” của dân tộc Việt nói chung.
- Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru. Nét đẹp say đắm trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở xung quanh mình.
- “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, từ đó thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất tầm thường.
- “Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao đời nay.
Kết bài
- Tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật
Phân tích bài thơ Đất Nước mẫu 1
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ của ông luôn hấp dẫn bạn đọc bởi sự kết hợp giữa chất chính luận và trữ tình, giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về đất nước, con người Việt Nam. Đã có nhiều nhà thơ viết về chủ đề Đất nước trong đó không thể không kể đến bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Bài thơ nằm trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” năm 1971 tại chiến khu Trị-Thiên. Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là bài thơ được ra đời năm 1948 là lời kêu gọi thiết tha của tác giả với các bạn sinh viên tuổi trẻ cùng xuống đường, hướng về cuộc kháng chiến chung của dân tộc.
Với hai từ Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng trong triệu trái tim người Việt. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những câu hát ru ngọt ngào và dịu êm, qua những câu hát dân ca đầy ngọt ngào và sâu lắng, thiết tha và luôn toát lên vẻ tự hào của các người đi trước, của những bậc thi nhân. Qua bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã cho ta một cái nhìn toàn diện về Đất nước từ nhiều phương diện khác nhau của nhân dân. Qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc, suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như lời tâm tình được kết hợp với những hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về cội nguồn đất nước.
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc
Qua những câu thơ trên nhà thơ muốn cho ta thấy Đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ngay trong cuộc sống bình dị, thường ngày của mỗi con người. Đất nước không ai nhớ mặt đặt tên nhưng khi chúng ta sinh ra thì Đất nước đã có từ lâu rồi. Trước tiên Đất nước hiện lên qua những câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể, trong miếng trầu bà ăn, qua hình ảnh cây tre trước ngõ, thông qua sự tích trầu cau , khơi gợi lại những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta đó là tĩnh nghĩa anh em đậm sâu, nghĩa tình vợ chồng son sắt thủy chung, gợi lại những cái phong tục đẹp của nhân dân ta đó là tục ăn trầu nhuộm răng. Còn qua những câu chuyện truyền thuyết như Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Qua đó làm cho ta liên tưởng đến một Đất nước Việt Nam ngày nay đầy vẻ đẹp bao dung, hiền hậu, thủy chung và son sắt như tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi lên một vẻ đẹp gắn liền với những truyền thống , những câu chuyện cổ tích của dân tộc qua đó cho ta hiểu được lịch sử ra đời của đất nước đã có từ rất lâu đời.
Đất nước được hiện lên qua những phong tục tập quán của dân tộc ta bao đời nay, đây là minh chứng cho một dân tộc giàu truyền thống về văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình. Bằng những hình ảnh bình dị, thân thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người dân Việt Nam ta đã được nhà thơ thể hiện qua những câu thơ, vần thơ mang đậm chất trữ tình và vẫn luôn thiết tha. Câu thơ “Tóc mẹ thì bới sau đầu nhắc cho người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa, làm nên nét riêng truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đất nước trưởng thành từ những giọt mồ hôi tần tảo dầm mưa dãi nắng. Hạt thóc, hạt gạo thấm mồ hôi, với bao nhọc nhằn thấm đẫm để nuôi lớn biết bao nhiêu thế hệ. Đất nước lớn lên từ những gian khổ của cha và từ những lo âu của mẹ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” đây là câu thơ thể hiện tình nghĩa vợ chồng, là lời thề vàng đá, là lối sống thủy chung, son sắt của những cặp vợ chồng Việt Nam. Câu thơ “Cái kèo cái cột thành tên” nói đến tục đặt con xấu cho dễ nuôi của dân tộc ta và ngày nay tục lễ này vẫn còn tiếp tục được duy trì và được gìn giữ như một bản sắc nét đặc trưng của dân tộc ta. Bằng thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ tám “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” chỉ ra những bước để tạo ra hạt gạo – một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn bảo vệ hạt giống, cốt cách con người Việt Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ truyền cho con tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho con cháu lối sống và nếp nghĩ thông qua ca dao tục ngữ.
Và chính nhân dân là những người đã truyền lại những vẻ đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần tác giả nhận ra: “Đất Nước có từ ngày đó”, ta không biết ngày đó là ngày nào chỉ biết đó là từ rất xưa, rất xa. Chỉ biết rằng đất nước có từ lúc những huyền thoại, truyền thuyết, từ lúc dân tộc hình thành phong tục tập quán, từ lúc dân Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng và dùng bàn tay lao động để xây dựng đất nước.
“Ngày đó” vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết trồng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung.
Đầu tiên nhà thơ cho chúng ta hiểu về đất nước qua phương diện chiều rộng của không gian địa lý là tất cả những yếu tố về mặt tự nhiên trên một đơn vị diện tích lãnh thổ đất nước. Là một nhà thơ đã đi hết chiều dài của mảnh đất hình chữ S, ông hiểu từng địa danh và vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam.
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ.
Ở những câu thơ tiếp theo nhà thơ đã có câu trả lời thay cho những câu hỏi đất nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm không trả lời theo khái niệm khoa học mà ông đã trả lời theo cương vị của một nhà thơ, dùng lối chiết tự, tách Đất nước thành hai nhân tố là “Đất” và “Nước” để mà định nghĩa, giúp người đọc có được cách hiểu chính xác nhất, đầy đủ nhất về khái niệm Đất Nước. Về phương diện địa lý Nguyễn Khoa Điềm ví “Đất là nơi anh đến trường/nước là nơi em tắm”. Là không gian gần gũi, thân thuộc đối với mỗi người trong cuộc sống đời thường, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. không những thế, đất nước còn là người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ nhung của những người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành một. Hình ảnh chiếc khăn biểu tượng của nỗi nhớ thương đã làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: “khăn thương nhớ ai khăn rơi xuống đất,…” một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương nhau say đắm.Bên cạnh đó Đất nước còn là nơi trở về của những tâm hồn tha thiết với quê hương. Thông qua hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang phong cách dân ca miền trung, thấm đẫm lòng yêu quê hương của tác giả. Đất nước mình bình dị nhưng đôi khi cũng thật tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Truyền thống của người Việt Nam ta là dù đi xa đến đâu nhưng lúc nào họ cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn. Đất nước luôn trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông, đất nước là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của bao thế hệ người Việt.
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
…
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Xét về phương diện lịch sử, tác giả đã trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì bằng một cái nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc để đưa ra câu trả lời chính xác nhất. Chúng ta đã biết lịch sử của sự ra đời của dân tộc ta là truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng, gợi nhắc cho chúng ta nhớ về nguồn gốc cao quý của mình là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn nhắc về truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông, mở ra triều đại đầu tiên của nước ta, triều đại vua Hùng kéo dài đến đời thứ mười tám. Kèm với đó là những lời dặn dò thiết tha của những người đi trước đối với thế hệ sau này là phải biết kế tục hương hỏa, duy trì nòi giống dân tộc. Dẫu cho chúng ta có đi làm ăn ở đâu, đi đâu đi chăng nữa thì lúc nào cũng phải nhớ đến ngày giỗ tổ của vua Hùng, phải biết nhớ về cội nguồn của mình với một lòng thành kính, trân trọng: “Con người có tổ, có tông/ con chim có tổ, con người có tông”.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn.
Đến đây cho ta thấy Đất Nước hiện tại hiện lên một cách gần gũi và thân quen, hiện diện ở trong mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ giao tiếp, phong tục tập quán vẫn luôn tồn tại trong cuộc sống thường ngày của người dân Việt Nam ta. Những câu thơ trên như muốn nhắn nhủ đến thế hệ mai sau là phải xây dựng khối đại đoàn kết trong dân tộc, xây dựng một đất nước vững mạnh để có thể sánh vai cùng với cường quốc năm châu qua hình ảnh mọi người cầm tay nhau, nối một vòng tay lớn thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau. không chỉ vậy hình ảnh cầm tay mọi người còn khiến ta liên tưởng đến nguồn gốc tổ tiên của chúng ta, nhắc nhở chúng ta đều cùng một mẹ sinh ra, thế nên chúng ta phải biết yêu thương đùm bọc, bảo vệ, che chở cho nhau.
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những ngày tháng mơ mộng
Đất nước trong tương lai phát triển mạnh hay không có vươn xa như các nước trên thế giới được hay không là phụ thuộc vào thế hệ trẻ, thế hệ kế cận sau này. Những thế hệ tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ và tầm vóc, để làm nên những điều kì diệu cho cả đất nước và dân tộc. Trách nhiệm của lớp trẻ là đưa đất nước đi xa , sánh vai với các cường quốc trên thế giới, đưa đất nước trở nên văn minh và giàu đẹp gấp nhiều lần hôm nay.
Sau khi đã định nghĩa được một cách rõ ràng về Đất nước về cả không gian và thời gian, cả về địa lý lẫn lịch sử thì Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại bằng những câu thơ rất thiết tha và thể hiện trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước của mình.
Em ơi Đất Nước là xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất nước muôn đời.
Đây cũng như lời tâm tình của người anh, là người đi trước dành cho người em của mình, lời tâm tình của người con trai nói với người con gái và cũng là lời nhắc nhở của nhà thơ đối với thế hệ sau này, đồng thời đây cũng là lời cảnh tỉnh, giác ngộ của cách mạng đối với tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam, những con người đang ngủ quên trong cuộc sống hưởng thụ. Đất nước là một khái niệm rất trừu tượng, thế nhưng khi so sánh Đất Nước với hình ảnh máu xương của mình thì đó lại là một khái niệm rất cụ thể, hữu hình. Đây cũng là phần nối tiếp trong ý thơ của tác giả “ trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất Nước”, thì ở đây tác giả đã chỉ ra cụ thể, rõ ràng Đất nước là máu là xương của mỗi người, là phần không thể thiếu để tạo nên cơ thể của họ, chính vì vậy đất nước ai cũng phải có.
Trong đoạn thơ này có điệp từ “phải biết” như muốn nói lên trách nhiệm của mỗi người, trách nhiệm đó là phải biết cống hiến, biết đấu tranh để bảo vệ gìn giữ nền độc lập của dân tộc, bảo vệ bờ cõi nước nhà khỏi những kẻ xâm lược, bản thân mỗi người phải biết gắn bó san sẻ giúp đỡ nhau trong cuộc sống cũng như trong chiến tranh, không ngại khó khăn gian khổ, sẵn sàng hy sinh, hiến dâng cả tuổi thanh xuân cho dân tộc, cho đất nước, coi trọng hạnh phúc của Đất Nước, sự bình yên hạnh phúc của người dân luôn đặt lên hàng đầu, lên trên hạnh phúc riêng của bản thân mình.
Có lẽ bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm được đánh giá là bài thơ hay nhất viết về chủ đề Đất Nước là nhà thơ đã làm rõ được quan điểm Đất nước của nhân dân. Và tư tưởng ấy được thể hiện rõ nét qua những câu thơ sau:
Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn bao ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Trên phương diện địa lý thì tác giả đã cho người đọc cảm nhận được Đất Nước qua những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng cách nhắc tên chúng một cách dày đặc trong bài thơ. những địa danh đó vốn dĩ đã trở thành quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam và gắn liền với những câu chuyện cổ tích, những truyền thống gắn liền với văn hóa của dân tộc, mục đích là muốn gửi gắm thể hiện niềm tự hào của tác giả đối với quê hương, đất nước. với dải đất hình chữ S nhà thơ đã đưa các danh lam thắng cảnh, các địa danh vào bài thơ cụ thể như hình ảnh núi Vọng Phu ngự ở Lạng Sơn và còn rất nhiều nơi khác, gợi nhắc cho chúng ta về hình ảnh người vợ chờ chồng đi đánh giặc trên khắp Tổ Quốc. Rồi còn hòn Trống Mái thì ở Thanh Hóa là hiện thân cho những cặp vợ chồng yêu nhau, trăm ao đầm mà gót ngựa Thánh Gióng đi qua rải khắp mọi miền đất nước thể hiện lịch sử hào hùng của dân tộc qua câu chuyện cổ tích Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc. Còn Đất tổ Hùng Vương là ở Phú Thọ, núi Bút non Nghiên ở Quảng Ngãi, Hạ Long ở Quảng Ninh, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm là những địa danh ở trong miền Nam. Qua việc nhắc đến các địa danh trải dài từ Bắc vào Nam như muốn khẳng định Nam Bắc một nhà chạy dọc theo dải hình chữ S của đất nước. Đồng thời những danh lam thắng cảnh đó cũng là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình cảm vợ chồng, là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của cả dân tộc Việt Nam, gợi nhớ lại lịch sử thiêng liêng và hào hùng của dân tộc ta trong ngày đầu dựng nước, và còn lan truyền truyền thống hiếu học của dân tộc ta qua các thế hệ. Từ những hình ảnh giản dị đời thường như con cóc, con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương. Qua việc sử dụng ngôn ngữ một cách độc đáo, tài tình mà nhà thơ đã khẳng định được tư tưởng Đất Nước của nhân dân, là do nhân dân góp công, góp sức làm nên đất nước.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời bỗng hóa núi sông ta
Tư tưởng đất nước của nhân dân đã được nhà thơ thể hiện qua các chi tiết, thì đến đoạn thơ này thì tác giả lại muốn khẳng định tầm vóc kỳ vĩ của Đất Nước ở phương diện địa lý qua hình ảnh “khắp ruộng đồng gò bãi” để mở ra một không gian lớn lao cao rộng, sau đó khẳng định sự trường tồn của Đất Nước ở phương diện lịch sử “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm”. Câu thơ trên đã nói lên bề dày lịch sử của dân tộc, lịch sử xây dựng đất nước đã trải qua những năm tháng chiến tranh cùng với đó là sự hy sinh, cống hiến của ông cha những người đã làm nên đất nước, đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông.
Bên cạnh đó trong bài thơ nhà thơ đã nêu lên được tư tưởng chủ đạo của bài thơ đó là tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi người nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ca ngợi các triều đại các vị anh hùng đã hy sinh, có những công lao to lớn đối với dân tộc được lưu danh muôn đời, được lịch sử của nước ta ghi chép lại nhưng nhà thơ lại chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình thường và bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh bình dị mà làm nên đất nước.
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Những con người làm nên đất nước thậm chí còn không ai nhớ mặt, nhớ được cái tên hay không ai biết tên của những người đã hy sinh, ra sức bảo vệ, gìn giữ, đấu tranh xây dựng đất nước cho thế hệ mai sau. Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước của đất nước đó là những hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những câu truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao. Mạch cảm xúc được dồn nén đến cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo.
Đất nước này là Đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Một lần nữa nhà thơ khẳng định Đất nước là của nhân dân nhưng cũng cho mọi người biết thêm về một định nghĩa mới lạ về Đất nước đó là Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể hiện được những phương diện quan trọng nhất là truyền thống của nhân dân, của dân tộc. Những câu thơ đa nói lên được sự đắm say trong tình yêu nhưng cũng muốn dặn dò con cháu phải biết quý trọng tình nghĩa và thể hiện được tinh thần chiến đấu quyết liệt trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm. Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với tâm hồn đầy lạc quan.
Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích Đất Nước với giọng văn chính luận trữ tình đã bộc lộ suy nghĩ sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết của mình đối với đất nước trên nhiều bình diện, địa lý, lịch sử, và bình diện văn hóa với tư tưởng bao trùm xuyên suốt ấy là tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Về nghệ thuật đoạn trích được viết theo lối quy nạp, biểu hiện nội dung chính luận một cách trữ tình bằng cách mượn các chất liệu văn hóa dân gian thân thuộc, mượt mà, êm ái, mang đến cho người đọc những xúc cảm thẩm mỹ độc đáo. Giọng điệu xuyên suốt đoạn trích là giọng thơ tâm tình tình, tha thiết, sâu lắng như giọng điệu của đôi lứa yêu nhau làm cho nội dung nghị luận vốn khô khan trở nên mềm mại, ngọt ngào thấm sâu vào lòng người.