Việt Bắc là tập thơ nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu, hầu hết các bài thơ đều được sáng tác vào thời kháng chiến chống Pháp và được in lần đầu năm 1954. Bài thơ như một bản tổng kết lịch sử bằng tâm tình. Dưới đây là dàn ý và một số bài văn mẫu chọn lọc cho đề bài phân tích bài thơ Việt Bắc mà VerbaLearn muốn truyền tải đến độc giả.
Giới thiệu về bài thơ Việt Bắc
Dàn ý phân tích bài thơ Việt Bắc
Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu và đặc điểm sáng tác của ông.
- Giới thiệu khái quát về bài thơ Việt Bắc.
Thân bài
Kết cấu bài thơ
- Sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình”-“ta”
- Kết cấu đối đáp vốn quen thuộc trong ca dao dân, dân ca
Cuộc chia tay giữa người dân với những người lính cách mạng như cuộc chia tay của những cặp đôi yêu nhau đầy bịn rịn, lưu luyến và nhớ nhung.
Lời đối đáp thứ nhất (8 câu thơ đầu)
- Lời của người ở lại phép điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ…” dưới hình thức một câu hỏi, gợi nhắc lại những kỉ niệm sâu sắc trong quãng thời gian “mười lăm năm ấy”
- Lời của người ra đi: thể hiện niềm nhớ thương với hàng loạt từ thể hiện cảm xúc “bâng khuâng”,”bồn chồn”, “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”,…
Khung cảnh bịn rịn, đầy luyến lưu.
Lời đối đáp thứ hai (những câu còn lại )
– Lời của người ở lại:
- Điệp từ “có nhớ”
- Gợi nhắc một cách chi tiết, cụ thể những kỉ niệm son sắt trong quãng thời gian mười lăm năm.
– Lời của người ra đi:
- Lời đáp của người ra đi như một lời thề son sắt thủy chung – lời thề về một nỗi nhớ khôn nguôi, da diết.
– Nhớ thiên nhiên:
- Hình ảnh “trăng lên đầu núi”: ánh trăng thanh bình giữa núi ngàn bao la, mênh mông.
- Trăng lên đầu núi” + “nắng chiều lưng nương” – ánh nắng chan hóa, ấm áp mỗi buổi chiều.
- Những bản làng chìm trong màn sương trông thật huyền ảo với những ảnh lửa bập bùng trong đêm tối và cả những rừng nứa, bờ tre, suối Lê.
– Bức tranh tứ bình:
- Mùa đông: “rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” thể hiện sự kết hợp màu sắc hài hòa.
- Mùa xuân với hình ảnh hoa mơ nở trắng rừng: sự thanh khiết, tinh khôi như hoa mơ của người dân nơi đây.
- Mùa hè “ve kêu rừng phách đổ vàng”
- Mùa thu với ánh trăng hòa bình
– Nhớ con người Việt Bắc:
Người mẹ việt bắc trong kháng chiến đầy vất vả, lam lũ, cơ cực nhưng cần cù, chịu khó.
Hình ảnh con người nơi đây luôn thủy chung, luôn đồng cam cộng khổ với nhau, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, lạc quan và yêu đời cùng nhau vượt qua những năm tháng khó khăn, gian nan trong cuộc chiến.
Những con người cần cù, luôn hiện lên trong tư thế lao động, làm chủ thiên nhiên, quê hương, đất nước: như hình ảnh “người đan nón chuốt từng sợi giang”, “cô em gái hái măng một mình”, “tiếng hát ân tình thủy chung”.
– Nhớ Việt Bắc hào hùng trong kháng chiến
- Với giọng thơ mạnh, nhanh, dồn dập
- Hình ảnh thơ gợi nên khí thế của cuộc chiến: quân đi điệp điệp trùng trùng, dân công đỏ đuốc từng đoàn, đèn pha bật sáng,…
- Những chiến công của quân dân ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
– Khẳng định vai trò vị trí của Việt Bắc trong kháng chiến và lời thể thủy chung, son sắt:
- Việt Bắc trước hết là quê hương cách mạng, là đầu não, là cái nôi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
- Việt Bắc còn là nơi khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta, nơi tiếp thêm cho quân và dân ta niềm tin, niềm hy vọng về ngày chiến thắng.
- Lời thề thủy chung son sắt.
Kết bài
- Khái quát về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc.
Phân tích bài thơ Việt Bắc Mẫu 1
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp giành thắng lợi năm 1954, hòa bình được lặp lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ Đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ nhung, lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ này. Bài thơ là cả nỗi niềm chất chứa, nhớ nhung thể hiện tình cảm gắn bó, đậm sâu của quân và dân ta với người dân nơi đây.
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm của con người Việt Nam hiện đại. Thơ của ông mang đậm chất trữ tình chính trị sâu sắc. Ông không chỉ là nhà thơ thành công trong việc kết hợp các biện pháp nghệ thuật mà giọng thơ của ông cũng mang đậm tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành được kết hợp với những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc mình với ta. Bằng tài năng của mình ông đã kết hợp và phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…
Tập thơ Việt Bắc là tập thơ nổi tiếng của ông thể hiện tình cảm gắn bó giữa quân với dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ca ngợi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ, ca ngợi về sự đoàn kết gắn bó hỗ trợ nhau giữa tiền tuyến và hậu vương, giữa cán bộ với quần chúng nhân dân và khung cảnh thiên nhiên nơi đây.
Mở đầu đoạn trích là khung cảnh chia tay của người ở lại và người chiến sĩ ra đi, trở về miền xuôi:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Đây là lời tâm tình của người ở lại mở đầu cho cuộc đối thoại giữa kẻ ở và người đi trong khung cảnh chia tay. Bao nhiêu những câu hỏi, trăn trở, suy tư của người ở lại đã gửi gắm vào câu hỏi dành cho người ra đi. Họ tự hỏi rằng liệu những người cán bộ, chiến sĩ cách mạng khi về xuôi liệu họ có nhớ về khoảng thời gian mà họ đã gắn bó thiết tha mặn nồng. Tuy rằng quãng thời gian đó không phải là ngắn nhưng cũng chưa hẳn là dài so với những năm tháng chiến đấu gian khổ chống lại giặc ngoại xâm của dân tộc nhưng người dân nơi đây muối hỏi người về rằng quãng thời gian mười lăm năm ấy có mặn nồng hay không? Họ có nhớ về con người, thiên nhiên, căn cứ đầu não của cách mạng được xây dựng tại nơi đây hay không? Chỉ bằng bốn câu thơ mà nhà thơ đã thể hiện được những nỗi niềm, sự trăn trở và tình cảm mà người dân Việt Bắc đã được thể hiện một cách đầy chân thực về những gì người dân và những người lính của ta đã gắn bó với nhau qua từng ấy thời gian. Đó là thời gian chứa đựng biết bao nhiêu là kỉ niệm và tác giả đã thể hiện sự khéo léo của mình khi đã vận dụng được lối đối đáp xưa vào bài thơ của mình qua cách xưng hô “mình-ta”, cùng với câu hỏi tu từ, điệp từ nhớ càng gây ấn tượng với người đọc về nét giản dị, gần gũi, mộc mạc nhưng lại vô cùng chân thành của những con người nơi đây.
Và trước những tình cảm đầy chân thành của người dân nơi đây đã khiến cho người đi không thể nói thành lời, thể hiện khung cảnh chia tay đầy lưu luyến.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo choàng đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
Qua những tính từ thể hiện cảm xúc, tình cảm như tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn đã diễn tả vô cùng chính xác, cảm xúc, tâm trạng của người ra đi trước lúc chia tay. Bên cạnh việc sử dụng tính từ Tố Hữu còn sử dụng biện pháp nghệ thuật hoán dụ đó là thông qua việc mượn hình ảnh áo chàm đây là vật dụng quen thuộc của người nông dân, qua đó muốn nói lên hình ảnh những người lao động đầy chất phác, hiền lành và hết sức giản dị của mảnh đất này trong khung cảnh đưa tiễn người lính cách mạng. Không khí của buổi chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn giữa kẻ ở và người đi, người đi về xuôi đã phải kìm nén cảm xúc của chính mình vào sâu trong đáy lòng mà không thể nói lên lời. Tất cả những tình cảm ấy được thể hiện qua những cái cầm tay, bởi khoảng thời gian mười lăm lăm cùng nhau chung sống, gắn bó với nhau như thế thì họ đã thật gắn bó và gần gũi biết bao, là quãng thời gian đủ để cho họ hiểu về nhau, chỉ cần bằng ánh mắt, cử chỉ hay hành động họ đã có thể hiểu thấu tâm tư tình cảm của người còn lại.
Tiếp theo đó là lời hỏi của người ở lại đối với người ra đi đã được thể hiện qua các câu thơ:
Mình đi có nhớ những nhà
Mưa nguồn suối lũ, nhớ mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
…
Mình đi mình có nhớ mình
Tân trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Trong không khí chia tay người ở lại đã đặt ra những câu hỏi, hỏi người ra đi về những kỉ niệm mà họ đã từng gắn bó với nhau trong mười lăm năm. Đó là những lời nhắc nhớ về những kỉ niệm năm tháng họ đã sát cánh bên nhau những ngày mưa nguồn suối lũ, mây cùng mù, miếng cơm chấm muối,… cuộc sống chiến đấu còn nhiều khó khăn, gian khổ, thiếu thốn lương thực, thực phẩm nhưng họ vẫn luôn vui vẻ, đoàn kết gắn bó với nhau thể hiện tình cảm khăng khít, gắn bó, cùng nhau vượt qua khó khăn để giành lại độc lập của người dân nơi đây. Họ đã nhường cơm sẻ áo, chia ngọt sẻ bùi, cùng nhau ăn cơm chấm muối và cùng chiến đấu với chung một kẻ thù. Khi người chiến sĩ về xuôi không chỉ con người nơi đây cảm thấy buồn tẻ, hụt hẫng mà ngay cả thiên nhiên nơi đây đã được nhà thơ miêu tả rất cụ thể và chân thực đó là hình ảnh trái bùi để rụng mà không ai hái, người dân nơi đây cũng không ăn hết, măng thì để cho già không có người lấy về để ăn thể hiện sự vắng vẻ, đìu hiu khi những người cách mạng về xuôi để lại khung cảnh vùng núi rừng Tây Bắc đầy vắng vẻ, hoang sơ một cách chênh vênh lạ thường. Không chỉ đặt câu hỏi cho người đi về những kỉ niệm về thiên nhiên khung cảnh nơi đây mà còn muốn nhắc người đi nhớ về mình qua câu thơ: Mình đi có nhớ những nhà/ Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son. Và những kỉ niệm ở nơi đây khi cùng nhau kháng Nhật, thuở còn Việt Minh, khẳng định một chân lý rằng càng khó khăn, gian khổ, thì tình nghĩa quân dân lại càng thêm đoàn kết gắn bó, sắt son, một lòng. Những người ở lại nhắc về kỷ niệm xưa cũ từ những ngày đầu mới quen, từ những năm tháng còn kháng chiến chống Nhật để kỉ niệm lại càng khắc sâu vào tâm hồn người đi. Nhớ đến những địa danh cụ thể không thể nào quên của người lính cách mạng và người dân Việt Bắc như là Tân Trào, Hồng Thái, Mái đình, cây đa đây là những nơi chất chứa bao kỉ niệm xưa cũ, nhân chứng lịch sử chứng minh cho sự hào hùng, tình cảm gắn bó không thể nào quên của quân và dân ta. Đến đây thì không còn cách xưng hô mình ta nữa mà chuyển sang xưng hô mình mình, qua đó cho thấy giữa hai người như được hòa chung thành một.
Ta với mình mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Những câu thơ trên ta lại thấy được nhà thơ sử dụng đối đáp mình-ta, ta với mình, mình với ta đã tạo nên sự đồng cảm tha thiết, qua câu thơ “lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” đã thể hiện được tình cảm thủy chung, son sắc một lòng của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc, như lời thề của tình yêu đôi lứa. Nỗi nhớ của người ra đi dành cho người ở lại lúc nào cũng đong đầy như nước đầu nguồn, không khi nào vơi đi. Nỗi nhớ người dân Việt Bắc của người ra đi được ví như nhớ người yêu là nỗi nhớ luôn thường trực của những cặp đôi yêu nhau không kể ngày hay đêm lúc nào cũng bồi hồi trong ngực. Người chiến sĩ nhớ về những kỉ niệm gắn bó với nhân dân và thiên nhiên nơi đây: nhớ những đêm trăng, nương rẫy tràn ngập ánh nắng, những bản làng ngập trong làn khói khi thổi cơm chiều, những con người cần mẫn, chịu thương, chịu khó nơi đây “đi sớm về khuya”. Nỗi nhớ đó đã được nhà thơ miêu tả rất cụ thể về từng địa danh rất chi tiết đó chính là rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
…
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
Khung cảnh người ra đi nhớ về những ngày cùng người dân chiến đấu trong gian khổ: hình ảnh bát cơm sẻ nửa, chia nhau củ sắn lùi, chia nhau chiếc chăn sui nói lên sự khổ cực, khó khăn trong chiến tranh nhưng mọi người vẫn luôn đoàn kết, cùng nhau chiến đấu. Nỗi nhớ còn được khắc họa qua hình ảnh nhớ người mẹ dân tộc địu con nhỏ lên rẫy để bẻ từng bắp ngô về làm lương thực, giúp đỡ cho những người lính có cái ăn, cùng nhau san sẻ những khó khăn và người lính còn nhớ đến những lớp học bình dân học vụ để dạy cho người dân nơi đây cái chữ, dạy cho họ biết đọc, biết viết. Qua hình ảnh những người chiến sĩ gian khổ trong chiến tranh chúng ta mới thấy được để có được sự tự do, chiến đấu giành hòa bình độc lập cho dân tộc thật không dễ dàng, cần có sự đồng lòng, đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ nhau trong những hoàn cảnh khó khăn trong chiến tranh đầy thiếu thốn về mọi thứ để vượt qua những khó khăn đó bài thơ “ Đồng Chí” của nhà thơ Chính Hữu có câu:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
Sau những giờ học, những lúc lên rẫy thì cũng có không khí của những buổi liên hoan vui vẻ, tuy những ngày tháng ở cơ quan có gian lao, vất vả nhưng họ vẫn luôn rất lạc quan cùng nhau hát hò xua tan đi những nhọc nhằn, vất vả,… người lính còn nhớ về những tiếng mõ, những âm thanh quen thuộc trong những buổi chiều ở nơi đây, nhớ tiếng chày giã gạo những đêm trăng phục vụ cách mạng. tất cả những kỉ niệm đó đều là những kỉ niệm đẹp không thể nào quên trong lòng người chiến sĩ.
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Những câu thơ trên đã thể hiện những vần thơ, ý đẹp đẽ nhất mà người ra đi dành cho con người và thiên nhiên Việt Bắc và cũng là khổ thơ với đầy màu sắc được thể hiện qua bức tranh tứ bình đầy sức hút và ấn tượng của tác giả, đồng thời cũng tạo cho người đọc dễ dàng cảm nhận về khung cảnh, thời tiết nơi đây đã có những thay đổi như thế nào qua bức tranh bốn mùa ở vùng Tây Bắc. Hai câu thơ đầu là lời khẳng định của nhà thơ rằng mình luôn nhớ về con người và thiên nhiên Việt Bắc. Mở đầu cho bức tranh tứ bình của Việt Bắc là hình ảnh hoa chuối đỏ tươi như tô điểm thêm cho khu rừng thêm sặc sỡ bởi màu đỏ của hoa chuối làm cho cánh rừng thêm vui tươi, rực rỡ hơn hẳn những ngày thường, màu đỏ của hoa chuối hòa vào đó là ánh nắng vàng làm cho khung cảnh mùa đông ở nơi đây cũng đã trở nên ấm áp hơn. Cũng cho chúng ta có thể liên tưởng đến tấm lòng của người dân nơi đây lúc nào cũng ấm áp, sẵn sàng giúp đỡ người chiến sĩ cách mạng vượt qua những ngày tháng chiến đấu đầy gian khổ. Khung cảnh mùa hạ chuyển qua mùa xuân được báo hiệu với những cánh rừng hoa mơ trắng xóa và tinh khiết, xen kẽ hình ảnh đó là những người cần mẫn, tỉ mỉ, khéo léo chuốt từng sợi giang để đan nón. Khép lại bức tranh mùa xuân cũng là lúc bước vào mùa hè với tiếng “ve kêu rừng phách đổ vàng”. Tiếng ve kêu là sự báo hiệu cho mùa hè và khi mùa hè đến thì cây cối nơi đây đặc biệt là rừng phách cũng bắt đầu trút lá, lá của chúng như được đổ lên một lớp sơn làm cho nguyên cả cánh rừng phách đều chuyển sang màu vàng óng ánh, rực rỡ. Khép lại bức tranh tứ bình là khung cảnh mùa thu với hình ảnh “rừng thu trăng rọi hòa bình” thể hiện khung cảnh vô cùng yên bình, không khí mùa thu thì luôn mát mẻ, dễ chịu hòa vào đó là tiếng hát ân tình thủy chung của người dân dạt dào tình cảm. Một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, sống động và tinh khôi. Trong bức tranh ấy không chỉ có thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn xuất hiện thêm hình ảnh con người chân chất, mộc mạc nhưng lại tình cảm và ý nghĩa biết bao. Có lẽ đây là đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất và trữ tình nhất trong bài thơ Việt Bắc. Nó chính là điểm sáng để cả bài thơ tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan.
Qua hình ảnh người con gái Việt Nam hái măng một mình cũng thật thơ mộng làm sao qua ngòi bút của nhà thơ. Kết thúc bức tranh bốn mùa là ánh trăng hòa bình cùng với những câu hát say đắm, thủy chung, đồng thời cũng khép lại khúc tình ca hào hùng về kháng chiến.
Trong nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại không thể không nhắc đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến, đó là khi “Giặc đến giặc lùng”, từ “lùng” ở đây đã nói lên được sự nguy hiểm của kẻ địch, của quân thù. Câu thơ “rừng cây núi đá ta cùng đánh tây”, “cùng với đất trời ta cả chiến khu một lòng” đã thể hiện được sự gắn bó sâu sắc của thiên nhiên và con người trong cuộc kháng chiến. Ở đây, thiên nhiên đã trở nên có linh hồn, có thể che chở cho bộ đội, bủa vây quân thù. Hình ảnh núi giăng thành lũy sắt dày góp phần tạo thành lá chắn không thể nào phá vỡ giúp đảm bảo cho quân và dân nơi đây, như là lá chắn thép để bảo vệ mọi người khỏi bom đạn của kẻ địch. Điệp từ “nhớ” kết hợp với những cụm từ “nhớ từ”, “nhớ sang”, những địa danh gắn liền với những chiến công, tất cả cho ta cảm nhận về nỗi nhớ trải dài khắp chiến khu Việt Bắc. Lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh thơ sinh động cùng việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật tu từ đã giúp nhà thơ khẳng định sức mạnh vĩ đại của dân tộc, đồng cũng bộc lộ nỗi nhớ và niềm tri ân sâu sắc đối với núi rừng Việt Bắc thấm đẫm tình thương.
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người lính cách mạng với mảnh đất Việt Bắc, của chiến khu Việt Bắc với nhân dân với đất nước bởi đây là quê hương cách mạng là trái tim của cả nước trong những tháng ngày kháng chiến chống Pháp. Biện pháp nghệ thuật tu từ so sánh “như là đất rung” kết hợp với hình ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” đã thể hiện sức mạnh vĩ đại của đoàn quân ra tiền tuyến, đoàn quân dài như vô tận rất kỳ vĩ và hào hùng.
Qua câu thơ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” đã kết hợp ba biện pháp nghệ thuật tu từ ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, hình ảnh “ánh sao đầu súng” gợi nhắc đến hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong thơ của Chính Hữu và “súng ngửi trời” trong thơ Quang Dũng thể hiện tầm cao của người lính, đây là một hình ảnh đẹp và rất giàu chất thơ. Hình ảnh đoàn dân công vô cùng mạnh mẽ, đông đúc “đỏ đuốc từng đoàn”, “bước chân nát đá”, gợi nhắc đến thành ngữ “Chân cứng đá mềm” khẳng định sức mạnh và sự vững chãi, bền bỉ của con người Việt Nam trước bão tố chiến tranh. Trong đêm tối của chiến tranh, quân và dân ta luôn hướng về ngày mai, luôn nuôi dưỡng niềm tin mãnh liệt về một ngày mai chiến thắng. Và cuối cùng tin vui đã về trên khắp đất nước, những người chiến sĩ về Hà Nội, về miền xuôi, nhưng vẫn đọng lại trong trái tim họ biết bao kỷ niệm, biết bao yêu thương, họ mang theo niềm vui toàn thắng trong những ngày cuộc kháng chiến khép lại.
Khi đã về xuôi người về đã nhớ đến cuộc chiến đấu đầy cam go của quân và dân ta đã một lòng cùng nhau đánh đuổi quân thù, cùng nhau chiến thắng kẻ địch.
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường chiến khu,…
Qua những câu thơ trên cho ta thấy được khí thế hào hùng của quân và dân ta. Người ra đi nhớ về những ngày tháng chiến đấu cùng đồng đội nơi căn cứ kháng chiến: đó là những giờ đi họp, bàn bạc, đưa ra sách lược, điều quân cho chiến dịch; những khi nhận được mệnh lệnh di chuyển để thực hiện nhiệm vụ,… cả tiền tuyến và hậu phương rộn ràng khí thế. Người chiến sĩ ở mặt trận chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu còn người ở hậu phương ra sức tăng gia sản xuất cung cấp lương thực cho chiến khu. Tất cả thể hiện tinh thần đồng lòng, quyết tâm đánh giặc của cả dân tộc, đất nước, con người Việt Nam.
Bên cạnh những kỉ niệm của người ra đi và kẻ ở lại, người ra đi còn nhắn nhủ con người về sự quan trọng của chiến khu Việt Bắc:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
Tác giả đã khẳng định vai trò Việt Bắc là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hy vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Ở bất cứ đâu trên đất nước này, bất cứ giai đoạn nào con người sống trong cảnh lầm than của ách đô hộ hãy hướng về Việt Bắc, về chiến khu, lấy đó làm động lực để chiến đấu vì chính nơi đây đã chiến thắng vẻ vang cho cả dân tộc.
Bên cạnh lời khẳng định tầm quan trọng của căn cứ cách mạng, người ra đi một lần nữa khẳng định tình cảm của mình: người ra đi sẽ luôn nhớ về 15 năm kháng chiến gian khổ để lấy lại độc lập cho nước nhà và luôn nhớ về những con người, thiên nhiên, địa danh nơi đây.
Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu và những bài thơ khác cùng thời, cùng đề tài viết về người lính như Đồng chí của Chính Hữu, Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, đã góp phần rất lớn vào trong chủ đề thơ ca cách mạng không những có tác dụng cổ vũ động viên tinh thần người chiến sĩ mà còn như những tấm gương phản chiếu về một thời đại vẻ vang của dân tộc, để cho thế hệ sau mãi tự hào và lấy đó làm bài học cho thế hệ mai sau về tinh thần đoàn kết, không ngại khó khăn gian khổ trong đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc.